CHƯƠNG VI: CÙNG CẢ NƯỚC TẬP TRUNG XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA (1975 - 1985)
Ngày 25/10/2014 15:56:14
Lịch sử Đảng bộ Thành phố Thanh Hóa 1945-2020 (Tiếp theo)
I. TIẾP TỤC KHÔI PHỤC PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI, CHĂM LO ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN, GÓP PHẦN BẢO VỆ TỔ QUỐC (1975-1980)
(Post by: Trần Chiến; Nguồn sách Lịch sử Đảng bộ Thành phố Thanh Hóa 1945-2010 do Thành ủy TP Thanh Hóa biên soạn và xuất bản 5/2014)
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX. Đảng bộ và nhân dân Thị xã cùng Đảng bộ và nhân dân tỉnh Thanh Hóa và toàn thể dân tộc Việt Nam bước vào thời kỳ lịch sử mới với niềm tự hào, tinh thần lạc quan cách mạng của người chiến thắng, với quyết tâm thực hiện thắng lợi Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh “xây dựng nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.
Ngay sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, từ ngày 19 đến 28-5-1975, Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ VIII. Đại hội đề ra nhiệm vụ của Tỉnh trong hai năm 1975 - 1976 và những năm tiếp theo là: "Phát huy mọi khả năng của cả 4 vùng: Đồng bằng, trung du, miền biển, miền núi, đi sâu vào tổ chức lại sản xuất, cải tiến một bước công tác quản lý từ cơ sở, tích cực xây dựng các điều kiện vật chất cấp thiết, đưa tốc độ khôi phục và phát triển sản xuất nhanh hơn, có hiệu quả kinh tế cao hơn; giải quyết vững chắc vấn đề lương thực, tăng nhanh thực phẩm và hàng tiêu dùng, tăng nhanh hàng xuất khẩu, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, cải thiện một bước đời sống nhân dân trong tỉnh. Đồng thời, tích cực chuẩn bị cho việc phát triển kinh tế mạnh mẽ trong kế hoạch dài hạn (1976-1980)".
Bước vào thời kỳ mới, nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ quê hương của Đảng bộ và nhân dân Thị xã có nhiều thử thách, khó khăn, nhưng cũng có những thuận lợi cơ bản.
Những khó khăn nổi lên đó là hậu quả chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ còn nặng nề. Chuyển từ thời chiến sang thời bình, cơ chế quản lý hành chính, quan liêu bao cấp không còn phù hợp. Đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt, cán bộ quản lý từ thành thị tới cơ sở còn mỏng và thiếu kinh nghiệm, năng lực tổ chức, quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Đời sống nhân dân tuy được cải thiện, nhưng cũng còn nhiều khó khăn.
Tuy nhiên, không khí phấn khởi của toàn dân sau thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã tạo động lực mạnh mẽ để Đảng bộ và nhân dân Thị xã tin tưởng vào thắng lợi của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Lòng yêu quê hương, đất nước của nhân dân là cơ sở vững chắc cho việc huy động lực lượng trên mặt trận phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng-an ninh. Đảng bộ đã tích lũy được những bài học kinh nghiệm quý trong lãnh đạo, chỉ đạo trên các lĩnh vực.
Với ý chí "Tất cả cho sản xuất, tất cả để xây dựng chủ nghĩa xã hội”, “Tất cả vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân", toàn Đảng bộ và quân dân Thị xã quyết tâm vượt qua thử thách, tạo nên những phong trào thi đua sôi nổi của quần chúng nhằm phát triển kinh tế, phát triển sự nghiệp giáo dục, văn hóa, y tế, khoa học kỹ thuật, tăng cường công tác quân sự địa phương và trị an xã hội, tiếp tục củng cố hệ thống chính trị, chú trọng công tác xây dựng Đảng, cùng nhân dân trong tỉnh vững vàng bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976 - 1980).
Trong thời kỳ mới, Đảng bộ và nhân dân Thị xã xác định rõ phải tập trung mọi khả năng, sức lực của các ngành, các cấp đẩy mạnh phát triển kinh tế, nhằm sử dụng hết khả năng lao động, phấn đấu hoàn thành vượt mức kế hoạch Nhà nước, thúc đẩy mọi mặt công tác văn hóa - xã hội tiến mạnh mẽ, vững.
Tăng cường công tác quản lý kinh tế, văn hóa, quản lý đô thị, phục vụ đắc lực yêu cầu phát triển kinh tế, văn hóa, nhằm củng cố và hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong cả hai khu vực quốc doanh và tập thể, tổ chức xây dựng cuộc sống mới tươi vui, lành mạnh.
Nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, tăng cường công tác quân sự địa phương, công tác bảo vệ trật tự trị an xã hội, sẵn sàng đối phó với mọi tình huống, ngăn ngừa và đánh bại mọi hành động chiến tranh tâm lý, gián điệp và mọi hoạt động phá hoại của địch, đáp ứng đầy đủ nhất các yêu cầu chi viện sức người và sức của cho cách mạng miền Nam...
Để thực hiện tốt phương hướng, nhiệm vụ trên, trong công tác lãnh đạo, Đảng bộ tập trung vào các nội dung chủ yếu:
- Phát động quần chúng thi đua lao động sản xuất và thực hành tiết kiệm; tăng cường công tác quản lý, củng cố và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
- Kiên quyết đấu tranh xóa bỏ các tệ nạn xã hội và những tư tưởng hành động tiêu cực trong tổ chức sản xuất, tổ chức quản lý, tổ chức đời sống xã hội.
- Tăng cường công tác xây dựng Đảng, chú trọng các mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và kiểm tra.
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ VIII, tháng 10-1975 Đảng bộ Thị xã nhấn mạnh: "Phải tập trung cao độ, nêu cao tinh thần chủ động, tự lực, tự cường, đoàn kết tương trợ nhằm nhanh chóng khắc phục hậu quả bão lụt, quyết tâm phấn đấu hoàn thành toàn diện các chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước năm 1975, đồng thời phải tích cực chuẩn bị tư tưởng, tổ chức, phương án cụ thể về nguyên liệu, cơ sở vật chất kỹ thuật cho năm 1976 với tinh thần quyết giành thắng lợi ngay từ tháng đầu, quý đầu của năm 1976 tạo tiền đề cho việc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976-1980).
Ngày 26-1-1976, Thị ủy ra Nghị quyết số 01-VP/TU về phương hướng, nhiệm vụ năm 1976, trong đó nêu rõ phương hướng, nhiệm vụ cụ thể là: "Ra sức phát huy thế mạnh, kiên quyết khắc phục nhược điểm, tồn tại, tập trung đẩy mạnh việc tổ chức lại sản xuất, tổ chức lại lao động xã hội, chấn chỉnh các mặt quản lý, trọng tâm là cơ sở sản xuất kinh tế nhằm đẩy mạnh kinh tế, văn hóa phát triển, hoàn thành toàn diện kế hoạch Nhà nước năm 1976, giải quyết tốt đời sống và đưa việc tổ chức quản lý Thị xã có chuyển biến tiến bộ về nếp sống mới”; khẩu hiệu hành động năm 1976 của Đảng bộ và nhân dân Thị xã là phấn đấu xây dựng "Thị xã giàu về kinh tế, giỏi về trật tự, đẹp về nếp sống".
Xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ, thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 03 của Tỉnh ủy về nhiệm vụ, chủ trương, biện pháp công tác cán bộ trong giai đoạn mới, ngày 7-7-1976 Thị ủy đã ra Nghị quyết số 05-NQ/TU về công tác cán bộ, coi cán bộ là khâu then chốt nhằm bảo đảm thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Nghị quyết chỉ rõ: Từ nay đến năm 1985, ngoài tiêu chuẩn phẩm chất đạo đức cách mạng cần có của mỗi cán bộ, phải đảm bảo có trình độ kiến thức các mặt của cán bộ từ Thị đến cơ sở đạt được những mục tiêu:
- Ở cấp Thị xã: Phải có trình độ văn hóa hết cấp III, về chuyên môn nghiệp vụ có trình độ đại học, về lý luận chính trị có trình độ trung cấp trở lên.
- Ở cấp cơ sở: Về văn hóa ít nhất phải hết cấp II trở lên, về chuyên môn nghiệp vụ phải có trình độ trung học, về lý luận chính trị phải có trình độ sơ cấp trở lên...
Trong công tác tổ chức-cán bộ, từng bước kiện toàn tổ chức bộ máy, sắp xếp, bố trí đổi mới từng bộ phận đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý. Đảm bảo tất cả cán bộ ở các cấp có đội ngũ cán bộ cốt cán đồng bộ, sức chiến đấu cao, năng lực tốt, khẩn trương tăng cường tổ chức bộ máy, tổ chức cán bộ ở Thị xã và các ngành quản lý kinh tế, văn hóa - xã hội và ở cơ sở sản xuất kinh doanh, nhất là cơ sở sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp....
Tiếp tục coi trọng công tác xây dựng Đảng, Thị ủy chủ trương nhanh chóng đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao sức chiến đấu cho đội ngũ cán bộ, đảng viên bằng nhiều hình thức:
- Mở lớp tập trung và tại chức cho đội ngũ cán bộ cơ sở.
- Lựa chọn và cử đi học các lớp bồi dưỡng, đào tạo do các trường Đảng chiêu sinh đối với cán bộ chủ chốt và kế cận.
- Tập trung kiện toàn củng cố các đảng bộ, chi bộ yếu kém, đấu tranh làm rõ đúng sai đối với cán bộ có sai lầm khuyết điểm.
- Đối với đảng viên trung bình, yếu kém, phải tích cực giáo dục; cùng cơ sở xác minh phân loại đảng viên loại 3. Đồng thời, giúp đỡ, tạo mọi điều kiện để chuyển hóa đảng viên trung bình lên đảng viên tích cực, v.v...
Trên mặt trận sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, khắc phục khó khăn về nguyên vật liệu, thiết bị, vật tư, phương tiện, cán bộ kỹ thuật... trong lãnh đạo, Ban Chấp hành Đảng bộ tập trung vào hai mũi nhọn là xuất khẩu và xây dựng.
Cán bộ, công nhân viên, xã viên ở các xí nghiệp, hợp tác xã đã nêu cao tinh thần làm chủ tập thể, có nhiều sáng kiến trong lao động sản xuất; hiệu quả sản xuất kinh doanh có chuyển biến tích cực, đã có 28/34 hợp tác xã sản xuất tiểu thủ công nghiệp đạt và hoàn thành vượt mức kế hoạch từ 100-139%. Điển hình là các hợp tác xã: Thành Công, Chiến Thắng, Phương Nam, Đoan Hùng, Thanh Xuân, Hợp Tiến... Đã có 25/26 xí nghiệp hoàn thành kế hoạch từ 100%-124% như: Xí nghiệp Dược phẩm, Nhà máy in Ba Đình, Xí nghiệp Bánh kẹo, Vận tải, Lương thực v.v...
Năm 1976, thành lập thêm hợp tác xã Nhựa và sắp xếp lao động ngoài xã hội vào các hợp tác xã, các tổ ngành nghề phục vụ gồm 1.929 người. Phát triển nhiều mặt hàng mới như phụ tùng xe đạp, máy cán cói, máy dập ngói cải tiến, cột buồm sông biển... Đó là những tiền đề quan trọng để ngành công nghiệp và thủ công nghiệp Thị xã vươn lên vào những năm sau.
Về sản xuất nông nghiệp, thực hiện chủ trương tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, Thị xã đã sát nhập các hợp tác xã nhỏ lên quy mô toàn xã, như các hợp tác xã: Đông Thọ, Đông Vệ, Đông Hải, Đông Hương, Quảng Thắng; 3 hợp tác xã quy mô tiểu khu hành chính: Phú Sơn, Nam Ngạn, Đông Sơn... đã khảo sát được đất đai, lên quy hoạch tổ chức lao động đồng ruộng, phân công lại lao động theo các đội chuyên để đi vào thâm canh, chuyên canh. Qua hai vụ đầu tiến hành sản xuất theo quy mô mới, cuối năm 1976, diện tích vụ chiêm và vụ mùa đều vượt hơn so với năm 1975; tổng sản lượng 2 vụ đạt 5.437 tấn, tăng 3,4 tạ/ha so với năm 1975. Sản lượng rau đạt 1.220 tấn, nhập cho Nhà nước 213 tấn, so với năm 1975 tăng gấp 2 lần. Chăn nuôi có chuyển biến rõ rệt, giao nộp nghĩa vụ cho Nhà nước được 80 tấn thịt lợn, 15 tấn gà, vịt, cá.
Gắn liền với việc thực hiện tổ chức lại sản xuất, Thị ủy đã chỉ đạo triển khai việc thực hiện chống tiêu cực đến đội ngũ cán bộ, xã viên các hợp tác xã nông nghiệp, các ngành sản xuất và dịch vụ. Thông qua cuộc vận động này, quần chúng được giáo dục nâng cao ý thức về vai trò làm chủ tập thể của người lao động, đấu tranh bài trừ và ngăn chặn tệ nạn xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, chống tham ô, lãng phí. Cuộc vận động này có tác dụng bảo vệ và rèn luyện đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác lãnh đạo và quản lý ở cơ sở, nhất là các cơ sở kinh tế.
Ngày 10-2-1976, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân Tỉnh tổ chức khởi công xây dựng công trình tiêu thủy Đông - Thiệu - Thị (lấy tên là công trình Thống Nhất, công trình cống Quảng Châu). Ủy ban nhân dân Thị xã tiếp tục triển khai làm hệ thống tưới tiêu Chi Giang 23. Trên các công trình này, "Thị xã huy động hơn 10 ngàn lao động với gần 300 ngàn ngày công tham gia đào đắp 300.000m3 đất đá. Trên mặt trận sản xuất nông nghiệp, Thị ủy đã chỉ đạo việc huy động và tổ chức lực lượng tham gia xây dựng công trình tiêu thủy Đông Sơn-Thiệu Hóa-Thị xã Thanh Hóa, còn gọi là “công trình thống nhất Quảng Châu”, với ý nghĩa chào mừng mùa Xuân lịch sử nước nhà thống nhất. Công trình được khởi công xây dựng ngày 5-3-1976. Đây là một công trình thủy lợi lớn, đòi hỏi kỹ thuật cao. Phần đào đắp kênh tiêu có khối lượng hàng chục triệu mét khối đất đá, có những đoạn kênh dài gần 20 km với mặt cắt ngang rộng 20-30 mét, hàng chục km kênh cấp 1 và cấp 2. Đến ngày 27-8-1976, công trình hoàn thành và đưa vào sử dụng, góp phần quan trọng vào việc bảo đảm nguồn nước tưới, tiêu chống úng, chống hạn trên địa bàn Thị xã và các huyện Đông Sơn, Thiệu Hóa. Riêng công trình sông Lý, toàn Thị xã đã huy động 3.100 lao động, với chỉ tiêu đạt 90.000 ngày công, hoàn thành trước thời gian quy định 8 ngày. Thị xã là đơn vị luôn luôn dẫn đầu cấp huyện về thời gian, năng suất và chất lượng công việc được giao, được tỉnh tặng cờ thi đua đơn vị khá nhất.
Về xây dựng cơ bản, đã tập trung xây dựng một số công trình quan trọng phục vụ phát triển kinh tế, văn hóa và đời sống nhân dân. Đáng chú ý, Đội Công trình Thị xã được Đảng bộ, chính quyền Thị xã giao nhiệm vụ xây dựng công trình chợ Vườn Hoa đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, bảo đảm đúng thời gian, đưa công trình vào sử dụng ngày 15-12-1976 như Nghị quyết Ban Chấp hành Đảng bộ Thị xã đề ra.
Theo chức năng của từng tổ chức chính trị - xã hội, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng đã tổ chức nhiều phong trào thi đua phục vụ nhiệm vụ chính trị của Thị xã.
Thực hiện Nghị quyết của Trung ương Đoàn về phát động phong trào “Thanh niên tình nguyện xây dựng đất nước” (5-1975), dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Thị ủy và của Tỉnh đoàn Thanh Hóa, Đoàn Thanh niên Thị xã đã thành lập các đội “Thanh niên tình nguyện xây dựng đất nước”, cùng cán bộ, đảng viên và nhân dân Thị xã khôi phục, phát triển kinh tế, văn hóa, giao thông, thủy lợi; san lấp hố bom, vận chuyển phương tiện, máy móc, ổn định sản xuất. Các hình thức hoạt động như: “Đội kiểm tra thanh niên”, “Ca máy thanh niên” đã góp phần thiết thực đưa năng suất lao động lên cao, bảo đảm duy trì tốt kỷ luật lao động.
Từ năm 1976, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VIII và Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đoàn lần thứ 21 (12-1975), Đoàn thanh niên Thị xã Thanh Hóa đã có nhiều chủ trương, giải pháp thích hợp tổ chức động viên tuổi trẻ tích cực, chủ động thực hiện 4 phong trào thi đua lớn: Phong trào thi đua lao động tình nguyện xây dựng đất nước; Phong trào thi đua quyết thắng trong các lực lượng vũ trang; Phong trào thi đua học tập trong các tầng lớp nhân dân; Phong trào thi đua rèn luyện thân thể và thực hiện nếp sống mới. Đoàn Thanh niên đã chú trọng giáo dục, tổ chức phong trào tình nguyện vượt mức kế hoạch, động viên đông đảo đoàn viên đi đầu trong sản xuất, đảm nhận những công trình, những việc khó nhất như công trình thanh niên xây dựng chợ Vườn Hoa của Chi đoàn hợp tác xã Chiến Thắng; Chi đoàn Xí nghiệp in Ba Đình mỗi số báo in nhanh hơn 2 giờ v.v.. Qua phong trào, được sự lãnh đạo của các cấp ủy, Đoàn Thanh niên Thị xã mở được 12 lớp đối tượng cho 437 thanh niên, kết nạp được 92 đoàn viên.
Hội Phụ nữ vận động 1.094 chị em đăng ký xây dựng gia đình văn hóa. Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh phong trào "Ba đảm đang", với nội dung hoạt động phù hợp yêu cầu mới của cách mạng.
Tổ chức Công đoàn ở các trường học, xí nghiệp, cơ quan Nhà nước được sắp xếp lại. Nhiều đơn vị công đoàn đã thực hiện các biện pháp phát huy quyền làm chủ của công nhân viên trong việc tham gia quản lý cơ quan, giải quyết những khó khăn về đời sống cho công nhân, viên chức và người lao động.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ VIII và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thị xã lần thứ IX về công tác xây dựng Đảng, Thị ủy đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, đảng viên; củng cố tổ chức cơ sở đảng; làm tốt công tác phát triển đảng, nâng cao chất lượng đảng viên; thực hiện có kết quả công tác đào tạo, bồi dưỡng và quản lý cán bộ. Tăng cường xây dựng cấp huyện. Cải tiến phương pháp làm việc của cấp ủy...
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, Đảng bộ cũng nhận thấy "Sự chuyển biến cách mạng trong Đảng bộ, năng lực lãnh đạo của đảng viên, của cấp ủy và các tổ chức chưa đáp ứng yêu cầu chuyển biến giai đoạn. Khâu yếu nhất đang hạn chế sức chiến đấu và năng lực công tác của cán bộ, đảng viên là sự giác ngộ về Đảng, về cách mạng xã hội chủ nghĩa còn thấp, thể hiện tinh thần cách mạng tiến công, ý thức làm chủ tập thể còn yếu, trình độ văn hóa, sự hiểu biết khoa học kỹ thuật, năng lực quản lý kinh tế, tổ chức xã hội mới cho cán bộ, đảng viên tiến bộ chậm. Công tác tư tưởng chưa thật sự gắn với cuộc chiến đấu mới để rèn luyện cán bộ, đảng viên... Vấn đề lớn nhất đấu tranh giữa hai con đường "ai thắng ai" thực chất là đấu tranh từ sản xuất nhỏ đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, trung tâm cách mạng xã hội chủ nghĩa, chưa giải quyết tốt ...".
Từ ngày 5 đến ngày 11- 5-1977 Đảng bộ Tỉnh Thanh Hóa tiến hành Đại hội đại biểu lần thứ IX (vòng 2). Đại hội đã xác định phương hướng, nhiệm vụ 2 năm 1977-1978: Quán triệt sâu sắc, chấp hành nghiêm chỉnh và vận dụng sáng tạo đường lối, nhiệm vụ của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, nêu cao tinh thần cách mạng tiến công và ý thức tự lực, tự cường, khắc phục mọi khó khăn, tiếp tục tổ chức lại nền kinh tế từng vùng, từng ngành, từ cơ sở đến tỉnh, đẩy nhanh tốc độ xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, cải tiến quản lý, thực hành tiết kiệm, nhằm tổ chức, sử dụng và phát huy mọi khả năng đất đai, tài nguyên, thiết bị và lao động của cả 4 vùng, mở rộng và đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, nghề rừng, nghề biển, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, lấy nông nghiệp làm trọng tâm, hoàn thành mục tiêu kế hoạch hai năm 1977-1978, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp công nghiệp hóa, cải thiện một bước đời sống nhân dân trong tỉnh. Phát triển sự nghiệp văn hóa - xã hội, tăng cường củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Làm tốt nghĩa vụ quốc tế với tỉnh Hủa Phăn.
Đại hội đại biểu Đảng bộ Thị xã lần thứ X (vòng 2) diễn ra từ ngày 28 đến ngày 30-6-1977 tại Hội trường Thị ủy. Dự Đại hội có 200 đại biểu, thay mặt cho 4.613 đảng viên trong toàn Đảng bộ.
Đại hội khẳng định thành tựu trong việc lãnh đạo phong trào cách mạng của Thị xã nhiệm kỳ 1975-1977, đồng thời chỉ rõ những mặt yếu kém cần được khắc phục. Báo cáo chính trị tại Đại hội đã chỉ rõ: do chủ quan và sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng còn nhiều thiếu sót, chưa nhận thức đúng đắn vị trí công tác xây dựng Đảng, chưa quán triệt đúng đường lối, phương châm, nguyên tắc và chính sách về công tác cán bộ, khâu mấu chốt nhưng yếu nhất hiện nay là tư tưởng và tổ chức cơ sở yếu kém, nhất là đội ngũ cán bộ.
Đại hội xác định phương hướng, nhiệm vụ của Thị xã trong 2 năm (1977-1978) là: "Sử dụng hết khả năng lao động và thiết bị hiện có, tăng thêm thiết bị cho một số ngành kinh tế trọng điểm, tăng cường công tác tổ chức lại sản xuất, cải tiến một bước quản lý kinh tế theo tinh thần Nghị quyết 19, 61, 134/CP của Hội đồng Chính phủ. Đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng cung cấp phần lớn cho nhu cầu nhân dân trong tỉnh. Tăng nhanh tốc độ sản xuất hàng xuất khẩu, sản xuất nhiều sản phẩm "rau, thịt", giải quyết vững chắc lương thực, đóng góp đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước, cải thiện từng bước đời sống nhân dân Thị xã, đồng thời tăng cường công tác quân sự địa phương, công tác trật tự, vệ sinh từng bước xây dựng Thị xã thành địa bàn công - nông nghiệp liên hiệp".
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 23 đồng chí (2 ủy viên dự khuyết). Ban Chấp hành Đảng bộ khóa X đã bầu Ban Thường vụ gồm 7 đồng chí; đồng chí Lê Xuân Sang được bầu làm Bí thư; đồng chí Thiều Quang Mộc làm Phó Bí thư (phụ trách chính quyền).
Năm 1977 là năm đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IV, năm thứ 2 thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ hai (1976-1980). Ban Thường vụ Thị ủy ra Nghị quyết về "Cuộc vận động toàn dân thi đua lao động sản xuất, cần kiệm xây dựng Thị xã, kết hợp quản lý thị trường và tổ chức trật tự an toàn Thị xã". Về các nhiệm vụ cụ thể, Nghị quyết nhấn mạnh: "Tổ chức quản lý, sắp xếp lao động và phân bố lao động xã hội, giải quyết công việc làm cho mọi người lao động trong Thị xã. Trên cơ sở đó phát động thành phong trào cách mạng trong lao động sản xuất ở từng xí nghiệp, hợp tác xã, cơ quan... tham gia lao động xây dựng Thị xã. Các cơ quan Nhà nước và các hợp tác xã quản lý chặt chẽ vật tư hàng hóa, phương tiện lao động, chỉ tiêu lao động ngày, giờ công, định mức lao động khoán sản phẩm. Tăng cường quản lý thị trường tự do, quản lý chặt chẽ và ngăn chặn những người buôn bán trái phép hàng công nghệ phẩm, đầu cơ lương thực, nấu rượu lậu”...
Thực hiện chủ trương của Thị ủy, các cấp ủy kịp thời chỉ đạo đẩy mạnh phong trào thi đua lao động sản xuất.
Bước vào thời kỳ mới, ngành tiểu, thủ công nghiệp gặp không ít hạn chế, khó khăn, như: tâm lý sản xuất nhỏ còn nặng nề, ngại khó, phương tiện sản xuất thiếu thốn, đặc biệt sự khó khăn về điện đã làm cho tốc độ sản xuất tiểu thủ công phát triển chậm, chất lượng sản phẩm thấp…
Để sớm khắc phục những khó khăn, trở ngại, thực hiện các Nghị quyết số 19, 61, 134/CP của Hội đồng Chính phủ về tổ chức lại sản xuất, tăng cường quản lý, toàn ngành đã vừa đào tạo thêm thợ mới, bồi dưỡng tay nghề cho thợ cũ, mở rộng xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, vừa đẩy mạnh cải tiến quản lý đi đôi với khuyến khích lợi ích vật chất, mở rộng diện khoán lương theo sản phẩm để đẩy mạnh sản xuất.
Trong những năm 1976-1977, Thị ủy Thanh Hóa chủ trương tổ chức lại sản xuất, tạo việc làm cho xã viên nhằm tăng thu nhập ổn định đời sống nhân dân; tăng cường quản lý, sắp xếp lại phân xưởng, định mức lao động, và định mức tiêu hao vật tư thấp nhất, khoán lương theo sản phẩm,... Mở rộng quy mô sản xuất của một số hợp tác xã với việc sáp nhập hai hợp tác xã thủy tinh Sơn Hà và Thống Nhất; sáp nhập ba hợp tác xã thêu Hồng Kỳ, Thanh Xuân và Liên hiệp nhựa; sáp nhập hợp tác xã Hợp Nhất chế biến (bún, bánh) với hợp tác xã Thắng Lợi sản xuất hàng sơn mài xuất khẩu. Toàn ngành Tiểu thủ công nghiệp đã tiếp nhận 2.394 lao động, trong đó có 920 người làm nghề thêu, vẽ tranh sơn mài, mành trúc xuất khẩu, đầu tư hơn hai triệu đồng mua sắm thiết bị, máy móc...
Trong năm 1977, ngành công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp đã được tăng cường thêm máy móc, nhà xưởng. Tổ chức lại lực lượng lao động sản xuất, sắp xếp 465 lao động ngoài xã hội vào các cơ sở sản xuất của hợp tác xã. Với sự quan tâm của các cấp, các ngành, năm 1977, ngành Tiểu thủ công nghiệp Thị xã đã hoàn thành vượt mức kế hoạch 12 loại sản phẩm chủ yếu và phát triển thêm 18 mặt hàng mới. Đã có 24/34 hợp tác xã và 30/33 xí nghiệp quốc doanh trên địa bàn hoàn thành kế hoạch Nhà nước. Tổng giá trị sản lượng của ngành năm 1976 đạt 23 triệu đồng, năm 1977 đạt 27 triệu đồng. Trong hai năm 1977-1978, giá trị sản xuất của ngành đạt 56,2 triệu đồng, bằng 102% kế hoạch và tăng hơn 31% so với năm 1976. Do năng suất lao động tăng lên và tiết kiệm nguyên liệu, vật tư… từ nhiều nguồn, các hợp tác xã thủ công nghiệp đã hạ giá thành một số mặt hàng tạo điều kiện giảm giá bán buôn, đời sống xã viên có những chuyển biến bước đầu.
Phong trào thi đua xây dựng tổ, đội lao động xã hội chủ nghĩa và phong trào thi đua đuổi kịp và vượt hợp tác xã Thủy tinh Thống Nhất, hợp tác xã Minh Thành được các ngành, các cấp triển khai thực hiện trên diện rộng.
Ngày 8-9-1977, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ra Nghị quyết về việc bồi dưỡng cán bộ hợp tác xã học tập và làm theo điển hình tiên tiến thi đua với hợp tác xã Định Công. Mục đích, nhằm nâng cao trình độ tổ chức quản lý hợp tác xã, thúc đẩy phát triển sản xuất theo gương điển hình tiên tiến, thực hiện thi đua “Định Công hóa các hợp tác xã nông nghiệp trong tỉnh”. Theo Nghị quyết của Tỉnh ủy, từ tháng 10-1977, mỗi hợp tác xã cử đoàn cán bộ khoảng 15 đồng chí, gồm: Bí thư Đảng ủy Tiểu khu, Chủ nhiệm hợp tác xã, Phó Chủ nhiệm và một số đội trưởng tham gia học tập 3 tháng tại các hợp tác xã điển hình tiên tiến như: hợp tác xã Định Công, Đông Hòa, Xuân Thành, Điền Lư.
Khối xí nghiệp quốc doanh, như Phân lân Hàm Rồng, Tàu thuyền, 19-5, Cơ khí... đã phát huy ý thức tự lực tự cường, trong hai năm 1977-1978 đều hoàn thành kế hoạch. Đời sống cán bộ, công nhân được nâng cao hơn. Trong phong trào đã xuất hiện những đơn vị đạt nhiều thành tích, tiêu biểu như: Công ty Xây dựng I và Công ty Xây dựng K2, được Chính phủ tặng thưởng Huân chương Lao động hạng ba.
Việc thực hiện cuộc vận động tổ chức lại sản xuất nông nghiệp từ cơ sở được triển khai sâu rộng tới các hợp tác xã trong toàn Thị xã. Thông qua phong trào "Định Công hóa", được sự lãnh đạo của Thường vụ Thị ủy, các cấp ủy cơ sở tập trung chỉ đạo sát sao, động viên xã viên nêu cao ý thức trách nhiệm, dám đầu tư vốn, sức lao động để tổ chức lại sản xuất, khai thác tốt tiềm năng đất đai và lao động. Hàng trăm héc ta ruộng được khai hoang phục hóa đưa vào sản xuất. Các hợp tác xã đã thực hiện đúng chính sách cho xã viên mượn đất trồng màu, phát triển kinh tế gia đình.
Các phong trào lao động sản xuất được phát động liên tục và đem lại kết quả cụ thể. Diện tích gieo trồng năm 1978 đạt 3.136 ha, tăng 3% so với năm 1977. Năm 1977-1978, tuy Thị xã bị thiệt hại do lũ lụt gây ra, nhưng sản lượng lượng lương thực vẫn đạt 10.000 tấn, tăng 7,5% so với hai năm 1975-1976.
Bên cạnh việc tăng diện tích, năng suất, sản lượng lương thực, chăn nuôi ở khu vực Thị xã có bước phát triển nhanh: năm 1978 đàn lợn có 6.314 con, tăng 1.000 con so với năm 1977, trong đó lợn lai kinh tế đạt 29% và đàn lợn tập thể tăng 20% trong tổng đàn lợn. Trại gà công nghiệp Nam Ngạn mở rộng quy mô, số lượng đàn gà lên 74.000 con; đã nhập cho Nhà nước 77.423 kg thịt. Phong trào xây dựng ao cá Bác Hồ được nhân dân các xã, hợp tác xã hưởng ứng sôi nổi.
Nhằm tạo điều kiện đẩy mạnh phong trào thâm canh lúa, mở mang phát triển chăn nuôi, đặc biệt là vấn đề thủy lợi. Thời gian này, lực lượng lao động của Thị xã đã hoàn thành đào đắp 42.000m3 đất đá trên công trình sông Hoàng, vượt trước thời gian, được Ủy ban nhân dân tỉnh tặng Cờ đơn vị khá nhất. Thị xã đã huy động 1.400 lao động đi công trường Tam Điệp, trong hai tháng hoàn thành đào đắp 55.934m3 đất đá. Các hợp tác xã huy động được 3.295 ngày công hoàn chỉnh trên công trường Chi giang 25.
Sau chiến tranh, các cơ quan Nhà nước, nhà máy, xí nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh và nhân dân từ nơi sơ tán chuyển về Thị xã và các khu vực trung tâm, nên việc cấp nước phục vụ sản xuất và sinh hoạt trở nên cấp thiết.
Tháng 10-1976, sau khi được Chính phủ phê duyệt luận chứng kinh tế kỹ thuật đầu tư mở rộng Nhà máy nước Thanh Hóa, ngày 10 – 8 – 1977, Thị ủy, Ủy ban nhân dân Thị xã nhận nhiệm vụ trước Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh về việc đào đắp Hồ chứa nước Núi Long, có dung tích 20 vạn m3 nước, nhằm nâng công suất Nhà máy nước từ 4000 m3/ngày đêm lên 20.000 m3 /ngày đêm. Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh, cùng các lực lượng thi công của Nhà nước, Ủy ban nhân dân Thị xã đã huy động đông đảo cán bộ, công nhân, viên chức và nhân dân trong việc đào đắp công trình. Bởi vậy, chỉ trong 60 ngày thi công (từ 20-10 đến 20-12-1977), nhân dân Thị xã đã đóng góp 143.687 ngày công, đào đắp 80.607 m3 đất đá xây dựng Hồ chứa nước Núi Long, hoàn thành nhiệm vụ tỉnh giao (Sau 8 năm thi công 1976-1984, Dự án mở rộng Nhà máy nước Thanh Hóa cơ bản hoàn thành và chính thức cấp nước với công suất 20.000 m3 /ngày đêm, có 14 km đường ống cấp 1 và 21,5 km đường ống cấp 2).
Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy Thanh Hóa về học tập và thi đua với hợp tác xã Định Công, các hợp tác xã Phú Sơn, Nam Ngạn, Đông Hải, Quảng Thắng đã tăng diện tích gieo trồng, đảm bảo thời vụ, đẩy mạnh áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật trong sản xuất.
Đồng thời với quan tâm lãnh đạo phát triển kinh tế, Đảng bộ Thị xã coi trọng lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng, củng cố nhiều công trình văn hóa, xã hội thiết yếu. Đặc biệt, trong những năm đầu xây dựng dựng quê hương, Thị xã Thanh Hóa đã luôn tận tình giúp đỡ, động viên Thị xã Hội An kết nghĩa, nhất là trên lĩnh vực sản xuất, phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp. Hai Thị xã đã tổ chức nhiều đoàn cán bộ để trao đổi, học tập kinh nghiệm. Những năm đầu sau giải phóng, hàng chục cán bộ của Hội An được đào tạo nghề cơ khí, thủy tinh, tiếp thu khoa học kỹ thuật sản xuất ngành nghề truyền thống ở Thị xã Thanh Hóa. Thị xã Thanh Hóa đã tặng Thị xã Hội An các sản phẩm hoàn chỉnh để làm mẫu, như: xe cải tiến, máy tuốt lúa, mành trúc, chiếu cói, xe đạp, các thiết bị dụng cụ như máy cắt, máy khoan, chuốt mây,... Nhờ đó, đến năm 1977, Hội An đã xây dựng được cơ sở sản xuất mành trúc ở phường Cẩm Phô, với số lao động trực tiếp và gia công ở các hộ gia đình lên tới gần 1000 người.
Tình cảm nồng thắm, sự tương trợ, đoàn kết giúp đỡ nhau giữa hai Thị xã trong thời kỳ kháng chiến tiếp tục được phát huy trong xây dựng và phát triển kinh tế, tạo thêm nguồn động lực để Đảng bộ và nhân dân Thị xã Thanh Hóa và Thị xã Hội An tiến lên trên con đường xây dựng quê hương, đất nước “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” theo Di chúc thiêng liêng của Bác Hồ.
Đồng thời, để tiếp tục thể hiện sự đoàn kết, tương trợ, gắn bó keo sơn với Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thị xã Hội An, sau năm 1975, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thị xã Thanh Hóa đã thực hiện chủ trương tăng cường giáo viên giúp ngành giáo dục Thị xã Hội An. Đồng bào và cán bộ Thanh Hóa đã ủng hộ, gửi tặng 10.000 đầu sách cho Thư viện của Thị xã Hội An. Đó là tài sản tri thức quý báu cho buổi đầu khôi phục và phát triển Thị xã.
Rạp chiếu bóng Hội An bị máy bay Mỹ đánh hủy diệt trong chiến tranh phá hoại lần thứ hai (9-9-1972) đã được xây dựng lại quy mô hơn, hoành tráng và đẹp hơn. Tháng 12-1977, công trình được chính thức khánh thành và đưa vào sử dụng. Đồng chí Nguyễn Yên Phó Bí thư Thường trực Thị ủy, Trưởng đoàn; đồng chí Nguyễn Đức Minh Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thị xã cùng đoàn đại biểu Thị xã Hội An kết nghĩa đã ra dự và chứng kiến sự kiện quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của Đảng bộ Thị xã. Qua đó, đã thắt chặt thêm tình đoàn kết keo sơn giữa hai Thị xã kết nghĩa.
Quán triệt Chỉ thị 214 của Ban Bí thư và chủ trương của Tỉnh ủy về mở cuộc vận động xây dựng nếp sống văn hóa mới, kể từ sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Thị ủy đã lãnh đạo ngành văn hóa đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tổ chức thực hiện cuộc vận động. Các khu phố đã động viên các gia đình đăng ký phấn đấu xây dựng “gia đình văn hóa mới”; thực hiện nếp sống mới trong lễ cưới, lễ tang, giỗ, tết... Tiểu khu Hoàng Hoa Thám trở thành một trong những đơn vị tiêu biểu của phong trào này trên phạm vi toàn tỉnh.
Thực hiện Chỉ thị số 06/CT-TU, ngày 19-8-1975 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về “Công tác giáo dục trong thời gian tới”, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Thị ủy và ngành Giáo dục tỉnh Thanh Hóa, những năm 1976-1977, ngành giáo dục Thị xã đã có nhiều biện pháp nhằm khắc phục những hạn chế về kiến thức văn hóa và hành vi đạo đức trong học sinh, theo tinh thần “dù khó khăn đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua “dạy tốt, học tốt” theo gương điển hình tiên tiến; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên; khắc phục sự mất cân đối trong các ngành học qua việc phát triển mạnh giáo dục bổ túc văn hóa; tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị giáo dục; chấn chỉnh và cải tiến công tác tổ chức, quản lý giáo dục; tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền và trách nhiệm của toàn xã hội đối với sự nghiệp giáo dục.
Thực hiện Nghị định 15/CP của Chính phủ về cải tiến tổ chức y tế địa phương và chủ trương của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh về thực hiện mục tiêu thi đua “5 dứt điểm” của Bộ Y tế, ngành y tế Thị xã đã đẩy mạnh phong trào thi đua “5 dứt điểm” trên địa bàn, tiêu biểu là phong trào thi đua dứt điểm xây dựng 3 công trình giếng nước, nhà tắm, hố tiêu. Năm 1977, Thị xã là một trong 6 huyện, thị của Tỉnh Thanh Hóa được công nhận là lá cờ đầu toàn quốc về phong trào này.
Trước tình hình bọn phản động quốc tế vẫn âm mưu thôn tính nước ta, toàn Đảng và toàn dân ta phải đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Ngày 19-6-1976, Đảng bộ Thị xã đã ra nghị quyết về công tác quân sự địa phương, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự xã hội trong tình hình mới là: Gắn liền với quy hoạch xây dựng Thị xã, kết hợp chặt chẽ với kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng pháo đài quân sự vững mạnh nhằm trước mắt nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu tại chỗ, chủ động đối phó thắng lợi trong mọi tình huống, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự xã hội, đồng thời xây dựng tích lũy mọi mặt để chuẩn bị tiến hành thắng lợi cuộc chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Thị xã ".
Toàn Đảng bộ và nhân dân đã nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, sẵn sàng chiến đấu và tập trung sản xuất mọi mặt để đập tan âm mưu xâm lược của kẻ thù trong mọi tình huống.
Những năm 1977-1978, Thị ủy đã chỉ đạo Công an Thị xã thực hiện tốt Chỉ thị 18/CT-BNV của Bộ Nội vụ về tập trung phát triển sâu rộng phong trào quần chúng “Bảo vệ an ninh Tổ quốc” và mục tiêu của Tỉnh ủy, Công an tỉnh Thanh Hóa: “Phấn đấu đạt hơn 70% xã, tiểu khu, cơ quan, xí nghiệp... có phong trào khá, thu hẹp diện trung bình, thanh toán yếu kém. Trước hết, tập trung phát động phong trào ở những xã, cơ quan, xí nghiệp trọng điểm”. Trong quá trình tổ chức thực hiện, Công an Thị xã đã tham mưu cho cấp ủy, chính quyền, lãnh đạo cơ quan, xí nghiệp sáng tạo nhiều hình thức phong phú, mà tiêu biểu nhất là phong trào “Tự quản đường phố” ở Thị xã.
Từ cuối năm 1978, Thị ủy đã chỉ đạo củng cố lực lượng sẵn sàng chiến đấu theo tinh thần Nghị quyết 04 của Tỉnh ủy về tăng cường công tác quân sự địa phương trong tình hình mới và quyết định của Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh về củng cố lại lực lượng vũ trang địa phương, chuyển biên chế, trang bị các đơn vị đang làm kinh tế sang làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu khi có lệnh. Trên địa bàn Thị xã, Trung đoàn 34 thành lập Đoàn cao xạ đảm nhiệm phòng không khu vực Hàm Rồng.
Ngày 17-2-1979, cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc diễn ra trên toàn tuyến biên giới phía Bắc. Tiếp tục phát huy truyền thống "Tòng quân giết giặc cứu nước", Đảng bộ Thị xã quyết định thành lập Trung đoàn Hàm Rồng do đồng chí Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy Quân sự Thị xã trực tiếp làm Trung đoàn trưởng và Sư đoàn dự nhiệm theo tinh thần Lệnh tổng động viên của Quốc hội và Chủ tịch Nước, bảo đảm vừa sẵn sàng chiến đấu bảo vệ địa phương, vừa sẵn sàng cơ động nơi xa.
Ngay từ khi có lệnh tổng động viên, Thị xã đã chú trọng xây dựng tuyến phòng thủ vững chắc. Các cụm chiến đấu đã hình thành và diễn tập theo mọi tình huống phương án tác chiến. Lực lượng dân quân tự vệ, công an được tăng cường về số lượng và chất lượng. Các tổ an ninh nhân dân ở cơ sở được củng cố. Các đơn vị như: Xí nghiệp Tàu thuyền, 19-5, Tiểu khu Nam Ngạn đã thực hiện nghiêm việc canh giữ bầu trời, mặt đất bằng chế độ mỗi ngày lao động sản xuất 8 giờ, luyện tập quân sự tuần tra canh gác 2 giờ. Nhân dân Thị xã đã đóng góp 22.070 ngày công xây dựng hầm hào chiến đấu; 186.860 viên gạch; 21 tấn vôi; 545m3 đá hộc và cát, 6,6 tấn xi măng để xây dựng bàn chông và hàng chục vạn mũi chông bằng sắt... Ngoài ra còn huy động được 251 tấn thóc, hàng ngàn tấm áo ấm, khăn len và tiễn đưa 4.723 thanh niên lên đường ra trận, góp phần cùng quân dân cả nước bảo vệ vững chắcnền độc lập, tự do và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Trong bối cảnh đó, từ ngày 25 đến ngày 28-6-1979, Đại hội đại biểu Đảng bộ Thị xã lần thứ XI đã diễn ra tại Thị xã Thanh Hóa, với sự tham dự của 306 đại biểu từ 187 chi bộ, đảng bộ cơ sở.
Trong 4 ngày làm việc, Đại hội đã nghe báo cáo của Ban Chấp hành Đảng bộ Thị xã do Đồng chí Bí thư Thị ủy trình bày; đã có 26 ý kiến tham gia thảo luận về Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ Thị xã. Đặc biệt, Đại hội được đồng chí Bí thư Tỉnh ủy dự và phát biểu chỉ đạo. Sau khi đánh giá những thành tích Đảng bộ và nhân dân Thị xã đạt được trong khôi phục, xây dựng và phát triển kinh tế-xã hội, đồng chí Bí thư Tỉnh ủy đã nêu rõ những tồn tại, khó khăn, hạn chế của Thị xã trong phát triển kinh tế là: "Về phát triển kinh tế Thị xã, mặc dù nguồn vốn, nguồn nhân lực không phải là không có nhưng tốc độ phát triển chậm. Thủ công nghiệp và tiểu công nghiệp chưa tận dụng được nguồn nhân lực sẵn có. Chưa hình thành được vành đai thực phẩm để giải quyết hậu cần tại chỗ ...".
Về phương hướng, nhiệm vụ của Thị xã trong nhiệm kỳ XI, Đại hội xác định: "Phát huy hơn nữa quyền làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của nhân dân lao động, ý chí tự lực tự cường, tinh thần cách mạng tiến công, khắc phục khó khăn, tận dụng thuận lợi nhằm tăng cường cải tiến quản lý kinh tế, tổ chức lại sản xuất trong cả tiểu, thủ công nghiệp, vận tải, nông nghiệp, tiếp tục phân bổ lại lực lượng lao động, sử dụng tốt khả năng lao động hiện có, tận dụng tốt công suất thiết bị, ruộng đất, vật tư, phế liệu, phế phẩm, khai thác thêm nhiều nguồn nguyên liệu mới, đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, đẩy mạnh sản xuất vụ đông, giải quyết vững chắc vấn đề lương thực và cung cấp ngày càng nhiều thực phẩm, thực hiện hậu cần tại chỗ. Đồng thời, tăng cường giữ vững an ninh chính trị, bảo vệ trật tự an toàn xã hội, đẩy mạnh quân sự hóa toàn dân, vũ trang toàn dân, khẩn trương chuẩn bị chiến đấu và chiến đấu thắng lợi; chi viện đầy đủ và kịp thời các yêu cầu của Tỉnh và cả nước (…), từng bước xây dựng Thị xã thành đơn vị kinh tế công - nông nghiệp, tổ chức tốt đời sống nhân dân và thành pháo đài vững chắc bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ...".
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành gồm 35 đồng chí, trong đó có 33 ủy viên chính thức và 2 ủy viên dự khuyết. Trong phiên họp thứ nhất (ngày 9-7-1979), Ban Chấp hành đã bầu 11 đồng chí vào Ban Thường vụ; đồng chí Lê Xuân Sang làm Bí thư Thị ủy; đồng chí Ngô Đức Kính làm Phó Bí thư thường trực; đồng chí Thiều Quang Mộc được tái cử Phó Bí thư phụ trách chính quyền;
Đại hội bầu Đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ X gồm 17 đồng chí. Đại hội đã thông qua Nghị quyết và Thư gửi cán bộ, đảng viên, nhân dân Thị xã.
Đại hội Đảng bộ Tỉnh Thanh Hóa lần thứ X (từ ngày 5 đến 12-10-1979) đã xác định phương hướng, nhiệm vụ những năm 1979-1980 là: “Nêu cao tinh thần làm chủ tập thể, yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội, phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, truyền thống đoàn kết, nhất trí, ý chí tự lực, tự cường, phát huy mọi nhân tố tích cực, khắc phục mọi khó khăn và những mặt tiêu cực; tiếp tục tổ chức lại sản xuất và cải tiến quản lý; kết hợp kinh tế với quốc phòng nhằm đẩy mạnh và mở rộng các ngành sản xuất; tập trung giải quyết vấn đề lương thực; hoàn thành các chỉ tiêu của kế hoạch 5 năm lần thứ hai, bảo đảm đời sống nhân dân, bảo đảm tốt các yêu cầu chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc; tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, đồng thời làm tốt nhiệm vụ quốc tế”.
Quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XI đối với Đảng bộ và nhân dân Thị xã cũng là quá trình quán triệt, thực hiện nhiều nghị quyết quan trọng của Đảng và Nhà nước, nhằm tháo gỡ những khó khăn ngày càng gay gắt về kinh tế-xã hội và đời sống nhân dân. Đó là quán triệt thực hiện các nghị quyết: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (khoá IV) tháng 8-1979, về cơ chế quản lý kinh tế, thực hiện những chủ trương và biện pháp cấp bách, mạnh mẽ, kiên quyết, nhằm đẩy mạnh sản xuất, ổn định và đảm bảo đời sống nhân dân; Nghị quyết số 26-NQ/TW, tháng 6-1980 của Bộ Chính trị về Cải tiến công tác phân phối và lưu thông (tài chính, tiền tệ, giá cả, tiền lương, thương nghiệp và quản lý thị trường); Chỉ thị số 100-CT/TW, ngày 13-1-1981 của Ban Bí thư Trung ương Đảng Về cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp (còn gọi là Khoán 100). Trên lĩnh vực công nghiệp, đó là việc thực hiện các quyết định của Hội đồng Chính phủ: Quyết định 25/CP, ngày 21-1-1981 về Một số chủ trương và biện pháp nhằm tiếp tục phát huy quyền chủ động sản xuất – kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh; Quyết định 26/CP, ngày 21-1-1981 về mở rộng hình thức trả lương khoán, lương sản phẩm và vận dụng hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất kinh doanh của Nhà nước,…
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ IX và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thị xã lần thứ XI, thực hiện Nghị quyết số 06-NQ-TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về “Sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu”, trong những năm 1979-1980, ngành Công nghiệp-Tiểu thủ công nghiệp của Thị xã đã mở rộng quy mô và phát triển các cơ sở sản xuất, nhất là những mặt hàng có ưu thế về nguyên liệu, tay nghề truyền thống nhằm cung cấp đủ hàng tiêu dùng và tăng nhanh hàng xuất khẩu. Các giải pháp cụ thể được tiến hành như: tăng cường năng lực chế biến lương thực, thực phẩm; phát triển cơ sở sản xuất đồ gỗ, tre, nứa; củng cố các cơ sở dệt thủ công; đẩy mạnh sản xuất các mặt hàng sành, sứ, thủy tinh; củng cố các cơ sở sản xuất hàng kim khí tiêu dùng; chú trọng cơ sở sản xuất, chế biến dược phẩm; tăng cường lực lượng lao động, mở rộng cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng.
Tuy gặp nhiều khó khăn về nguyên vật liệu, năng lượng, thiết bị, cán bộ chuyên môn kỹ thuật giỏi, nhưng các nhà máy, xí nghiệp, hợp tác xã đã chú trọng phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, đưa tiến bộ khoa học vào quy trình sản xuất. Các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh tập trung tháo gỡ khó khăn, duy trì sản xuất, giải quyết việc làm, từng bước ổn định đời sống công nhân viên chức, đóng góp cho ngân sách Nhà nước, như Xí nghiệp in Ba Đình, Dược phẩm, May cắt gia công; Cát sỏi Hàm Rồng, Điện cơ, v.v... Một số cơ sở tiểu thủ công nghiệp đã kịp thời chuyển hướng sản xuất, đầu tư trang bị kỹ thuật, thực hiện khoán, quản lý theo cơ chế mới phù hợp hơn. Đã có 8 hợp tác xã hoàn thành kế hoạch trong cả 5 năm, như: hợp tác xã Thành Công, Hợp Tiến, Chiến Thắng, Toàn Thành, Đồng Tiến, Tiến Lập, Sao Đỏ, Điện Biên. Chú ý khai thác và tận dụng nguyên liệu địa phương để tạo một số mặt hàng mới góp phần đáp ứng nhu cầu của thị trường trong và ngoài Thị xã, như: phấn viết bảng của hợp tác xã Sao Đỏ; đá xẻ xuất khẩu của hợp tác xã Đồng Minh; lốp xe đạp của hợp tác xã Minh Thành; gạch hoa xi măng của hợp tác xã Điện Biên,... Đồng thời, tạo thêm việc làm cho nhiều lao động, năm 1980 các đơn vị sản xuất của Thị xã đã tiếp nhận 563 lao động, trong đó có 260 lao động được đào tạo để làm hàng xuất khẩu.
Điểm nổi bật trong phát triển sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp là Thị ủy đã lãnh đạo, chỉ đạo các đơn vị trong ngành giúp nhau tháo gỡ khó khăn về vốn, vật tư, tiêu thụ sản phẩm có hiệu quả thiết thực.
Về nông nghiệp, thi đua với “Định Công”, các hợp tác xã nông nghiệp đã tích cực hưởng ứng phong trào "Tất cả các hợp tác xã làm vụ đông, nhà nhà làm vụ đông..." do Thị ủy, Ủy ban nhân dân Thị xã phát động.
Các hợp tác xã và xã viên đẩy mạnh khai hoang phục hóa, chấp hành tốt việc cho mượn đất ngoài kế hoạch của hợp tác xã để sản xuất vụ đông. Đến cuối năm 1979, diện tích vụ đông đã bằng 227% so với vụ đông năm 1978. Tổng sản lượng khoai tây và khoai lang đông đạt 297 tấn, góp phần tăng tổng sản lượng lương thực. Thị xã Thanh Hóa là đơn vị xếp thứ hai toàn Tỉnh về sản xuất nông nghiệp (về chăn nuôi, cấy hết diện tích và cho Nhà nước vay 54 tấn thóc trong lúc cả nước khó khăn).
Tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp của Thị xã gặp nhiều khó khăn bởi thời tiết diễn biến bất thường. Năm 1980, cơn bão số 6 và rét đậm kéo dài đã làm mất 40 tấn giống phải gieo lại, diện tích mất trắng là 554/1.390 ha. Đồng thời, vào thời điểm này, giá cả các mặt hàng phục vụ tiêu dùng và nông nghiệp tăng mạnh. Vì vậy, sản lượng vụ mùa năm 1980 chỉ đạt 1.403 tấn, bằng 50% sản lượng vụ mùa năm 1979 (Phú Sơn là hợp tác xã thâm canh giỏi nhưng chỉ đạt 145 tấn/năm so với năm 1979 là 291 tấn). Đời sống nông dân gặp rất nhiều khó khăn. Vấn đề thiếu lương thực nổi lên gay gắt.
Do sản xuất nông nghiệp giảm, nên chăn nuôi cũng giảm đáng kể. Năm 1980 đàn lợn chỉ có 5.654 con, sút hơn năm 1979 là 1.462 con, trong đó đàn lợn tập thể bằng 20% tổng đàn lợn và sụt so với năm 1979 là 836 con. Đàn lợn nái giảm mạnh, nên không đủ giống để cung cấp cho nhu cầu phát triển chăn nuôi những năm sau.
Vấn đề tổ chức lại sản xuất trong các hợp tác xã nông nghiệp được Thị ủy, Ủy ban nhân dân Thị xã quan tâm.
Thực hiện chủ trương điều chỉnh quy mô hợp tác xã và đội sản xuất, ba hợp tác xã: Đông Hải, Đông Hương, Đông Vệ trước đây có 42 đội sản xuất cơ bản, đến cuối năm 1980 điều chỉnh lại gồm 67 đội. Bảy hợp tác xã: Quảng Thắng, Đông Hải, Đông Thọ, Đông Hương, Tạnh Xá, Mật Sơn, Quảng Đại đã vận dụng hình thức khoán sản phẩm cây lúa cho người lao động đi đôi với cải tiến quản lý hợp tác xã.
Về xây dựng cơ bản, đã tập trung chỉ đạo thi công dứt điểm các công trình trọng điểm, như: san lấp mặt bằng khu dân cư phía Bắc Cầu Sâng, Trại Cá và mặt đường Lê Lợi; công trình xây dựng Bến xe khách v.v...
Về lưu thông phân phối, tài chính, ngân hàng, mặc dù còn nhiều khó khăn (nhất là do dân số tăng nhanh làm cho nhu cầu về nhiều mặt hàng tăng lên trong điều kiện cả nước đang mất cân đối giữa cung và cầu), các ngành trên đã kịp thời có những biện pháp tích cực để phục vụ đời sống nhân dân. Từ tháng 11-1980 trở đi, việc cung cấp lương thực theo 3 loại đối tượng được ổn định và đi vào nề nếp. Những hoạt động này đã góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển.
Sự nghiệp văn hóa - xã hội tiếp tục được quan tâm chăm lo. Thực hiện Nghị quyết số 11, ngày 11-1-1979 của Bộ Chính trị về cải cách giáo dục và lộ trình thực hiện cải cách giáo dục mà ngành giáo dục đề ra, từ năm học 1980-1981, ngành giáo dục Thị xã đã tích cực làm tốt khâu chuẩn bị giai đoạn I, tập trung xây dựng cơ sở vật chất, như đóng mới bàn ghế, xây dựng thêm phòng học đủ tiêu chuẩn. Từ năm học 1981-1982 đến năm học 1982-1983, hầu hết các trường phổ thông trên địa bàn Thị xã đã thực hiện cải cách giáo dục. Ngành đã tổ chức tốt các lớp mẫu giáo 5 tuổi; huy động tối đa trẻ 6 tuổi đến lớp 1; tận dụng các nguồn ngân sách địa phương và do nhân dân đóng góp để tăng cường cơ sở vật chất cho các lớp thay sách giáo khoa. Tổ chức bồi dưỡng nội dung sách giáo khoa, phương pháp giảng dạy các lớp cải cách giáo dục cho giáo viên.
Về giáo dục phổ thông cơ sở, số lớp hàng năm đều tăng: Năm 1978 có 24 lớp, năm 1979 có 51 lớp, năm 1980 có 99 lớp. Các trường: Ba Đình, Điện Biên, Lê Văn Tám, Cù Chính Lan, Minh Khai vẫn giữ vững là trường có chất lượng trong công tác dạy và học; giáo dục phổ thông trung học có những bước tiến cụ thể; tuy nhiên, giáo dục bổ túc văn hóa chất lượng có giảm sút, năm học 1979-1980 có 431/2.163 học viên tốt nghiệp, chiếm 23%.
Năm học 1980-1981, các trường cấp III Lam Sơn, Hàm Rồng, các trường hệ vừa học vừa làm có 68 lớp, với 3.561 học sinh; bình quân cứ 4 người dân có 1 người đến lớp. Những đội tuyển học sinh giỏi của Thị xã đóng vai trò là nhân tố chủ đạo trong đội tuyển học sinh giỏi của Tỉnh.
Lĩnh vực văn hóa – thể thao có những chuyển biến mới. Những năm 1978-1980, hoạt động văn hóa thông tin phát triển mạnh, đã mở một số lớp bồi dưỡng giáo viên múa, hát, nhạc; hệ thống thư viện trên địa bàn được củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động. Đến năm 1980 mở thêm 3 thư viện cơ sở, nâng tổng số lên 11 thư viện ở Thị xã. Thư viện Thị xã được nâng lên là Thư viện Tổng hợp, quan tâm thiết lập thư viện các cơ quan, xí nghiệp, trường học, bệnh viện. Thị xã cùng với các huyện như Hậu Lọc, Hoằng Hóa, Tĩnh Gia, Thọ Xuân, Thiệu Hóa, Yên Định, Bá Thước là những địa phương có hệ thống thư viện phát triển nhanh và mạnh nhất tỉnh, qua đó góp phần nâng cao dân trí, thúc đẩy phát triển kinh tế-văn hóa-xã hội của địa phương.
Quán triệt đường lối của Đảng về đẩy mạnh sản xuất, sẵn sàng chiến đấu, ngành bưu điện Thị xã đã kịp thời chuyển hướng hoạt động; chú ý xây dựng mạng lưới thông tin liên lạc theo hướng dự phòng, sẵn sàng phục vụ sản xuất và chiến đấu. Tổng đài ATZ-64, 400 số Thị xã Thanh Hóa –nơi tập trung các đầu mối thông tin của cả tỉnh đã được lắp đặt.
Hoạt động văn hóa- thông tin, thể thao đã hướng vào thực hiện nhiệm vụ chính trị và những nhiệm vụ chung, trọng tâm hoặc đột xuất, như đi phục vụ công trường, đường sắt và đồng cói Nga Sơn hay những đợt tuyển quân...
Sự nghiệp y tế được quan tâm chăm lo. Phong trào trồng cây dược liệu, sử dụng thuốc nam được phát động toàn Thị xã, chất lượng khám và chữa bệnh nội, ngoại trú của Bệnh viện Thị xã và các trạm xá Hoàng Hoa Thám, Nam Ngạn, Quảng Thắng, Đông Hải, Phú Sơn được nâng lên một bước mới. Ngành y tế đã triển khai thực hiện kế hoạch của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân Tỉnh về nâng cao chỉ tiêu phụ nữ đặt vòng tránh thai, theo hướng dẫn của Bộ Y tế, đã thực hiện 3 bước: Bước 1, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục; Bước 2, vận động phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ đăng ký đặt vòng; Bước 3, thực hiện kỹ thuật chuyên môn khám và đặt vòng. Đến năm 1980, Thị xã đã hạ tỷ lệ tăng dân số xuống còn 1,4%, góp phần làm cho tỉnh Thanh Hóa trở thành một trong 10 tỉnh dẫn đầu cả nước về phong trào đặt vòng tránh thai.
Việc thực hiện các chính sách xã hội được Ủy ban nhân dân Thị xã và Phòng Thương binh - xã hội quan tâm đúng mức. Toàn Thị xã đến cuối năm 1980 có 1.246 hộ gia đình liệt sĩ và có 1.274 thương binh. Các cơ sở, khu phố đã chăm lo ổn định đời sống của các đối tượng chính sách. Ủy ban nhân dân Thị xã đã trợ cấp đột xuất cho 739 gia đình thương binh và cấp học bổng cho 662 học sinh con thương binh, chăm sóc các cụ già neo đơn, gia đình đặc biệt khó khăn,… với tổng số tiền là 62.500 đồng.
Công tác quân sự địa phương, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của Thị xã có chuyển biến tích cực. Công an Thị xã đã làm tốt công tác tham mưu cho Thị ủy và Ủy ban nhân dân Thị xã trong việc chỉ đạo đẩy mạnh phong trào “quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc” kết hợp với chấn chỉnh, xây dựng lực lượng công an "trong sạch vững mạnh". Phối hợp tổ chức tuyên truyền tài liệu “nâng cao cảnh giác, phòng chống gián điệp, biệt kích, phòng chống gây rối, gây bạo loạn” và tuyên truyền về những quy định, quyền hạn của tổ An ninh nhân dân, theo hướng dẫn của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy. Thông qua phong trào này, Thị xã đã xây dựng thêm nhiều tổ an ninh nhân dân. Cùng với đẩy mạnh phong trào “quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc”, lực lượng Công an Thị xã đã tham mưu cho các cấp, các ngành củng cố, kiện toàn tổ chức lực lượng bảo vệ cơ quan, xí nghiệp.
Trước tình hình các thế lực phản động, thù địch ráo riết tổ chức hoạt động xâm lấn biên giới, gây chiến tranh tâm lý, lực lượng công an Thị xã đã khẩn trương triển khai thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, của Bộ Nội vụ về tăng cường lực lượng bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, như: tăng cường các biện pháp nắm tình hình, chủ động phát hiện và ngăn chặn các hoạt động chống đối; tổ chức xây dựng địa bàn vững mạnh; soát xét, phân loại đối tượng chính trị, hình sự ở các tiểu khu và cơ quan xí nghiệp. Chủ động xây dựng phương án chiến đấu và tổ chức diễn tập ở địa bàn trọng điểm của Thị xã; thực hiện lập phương án bảo vệ nhân dân. Công an Thị xã đã thực hiện nghiêm túc Chỉ thị 09/CT-TU của Tỉnh ủy Thanh Hóa về “Xây dựng lực lượng công an nhân dân trong sạch, vững mạnh và đẩy mạnh phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, trong đó xây dựng, củng cố, kiện toàn mọi mặt lực lượng bảo vệ dân phố, bảo vệ cơ quan, xí nghiệp, lấy đó làm nòng cốt xung kích trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, trong các phong trào trên. Qua 5 năm thực hiện Chỉ thị 09 của Tỉnh ủy, Công an Thị xã không còn đơn vị yếu kém.
Đảng bộ tập trung chỉ đạo các lực lượng của khối nội chính có sự đồng tình ủng hộ của quần chúng tiến hành những đợt đấu tranh, vây quét các ổ, nhóm lưu manh, trộm cắp. Sự phối hợp giữa hai ngành Thuế và Quản lý thị trường ngay trên địa bàn các phường đã đem lại hiệu quả thiết thực, góp phần chống thất thu thuế. Thị xã là nơi tập trung đầu mối giao thông đường sắt của tỉnh, nên cấp ủy, chính quyền địa phương đã làm tốt công tác bảo vệ giao thông đường sắt, như: xác định rõ trách nhiệm của từng ngành và của Thị xã trong việc bảo đảm an toàn đường sắt; lực lượng công an, quân đội được tăng cường bảo vệ ở các trọng điểm, kết hợp với dân quân tự vệ tuần tra canh gác 24/24 giờ; tổ chức lực lượng điều tra, truy quét các đối tượng phá hoại; xử lý nghiêm minh những trường hợp vi phạm, qua đó lập lại trật tự an toàn đường sắt, chặn đứng tệ cướp giật, trộm cắp tài sản và tai nạn giao thông đường sắt giảm đáng kể.
Công tác tuyển quân hàng năm đều đạt chỉ tiêu về tiến độ, số lượng, chất lượng. Sau sự kiện tháng 2-1979, Ban Chỉ huy Quân sự Thị xã (Thị đội) tăng cường huấn luyện chính trị, kỹ thuật, chiến thuật cho các lực lượng vũ trang, nhất là dân quân tự vệ. Thị xã đã xây dựng và củng cố được 186 đơn vị dân quân tự vệ với 13.694 chiến sĩ, đóng vai trò là lực lượng xung kích trên mặt trận sản xuất ở cơ sở. Nhiều năm liền, Thị xã được biểu dương là đơn vị huấn luyện giỏi, được công nhận là "Đơn vị quyết thắng".
Trong công tác xây dựng Đảng, thông qua các đợt sinh hoạt chính trị lớn như thực hiện Nghị quyết 23, Thông tri 22, Chỉ thị 72 của Trung ương và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XI, Đảng bộ Thị xã đã gắn được công tác xây dựng Đảng với nhiệm vụ chính trị, từ đó nâng cao vai trò, vị trí của tổ chức cơ sở Đảng và đội ngũ đảng viên trong mọi lĩnh vực.
Đảng bộ chú ý nâng cao chất lượng đảng viên và củng cố tổ chức cơ sở Đảng. Tổ chức Đảng được sắp xếp lại phù hợp hơn với điều kiện của các đơn vị sản xuất, công tác; chấn chỉnh một bước công tác sinh hoạt đảng; cải tiến lề lối làm việc. Đảng viên được phân công hướng dẫn quần chúng tham gia xây dựng Đảng; làm tốt công tác kỷ luật đảng. Đội ngũ cán bộ cốt cán được phát triển theo hướng tăng thêm cán bộ trẻ; bước đầu xây dựng quy hoạch cán bộ và đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Năm 1980 được Đảng bộ xác định là năm xây dựng Đảng. Đảng bộ Thị xã đã tổ chức tốt việc phát thẻ đảng viên đợt 3-2-1980 trên cơ sở phân loại tổ chức cơ sở đảng và đảng viên; trong đó những chi bộ, Đảng bộ được chọn phát thẻ đảng viên là những đơn vị được củng cố tốt; đối với đảng viên, là những đảng viên đủ tư cách làm tròn nhiệm vụ. Các cấp ủy Đảng coi việc thực hiện phát Thẻ đảng viên là nhiệm vụ trọng tâm. Ban Tổ chức Thị ủy cùng với Ban Tuyên huấn, Ủy ban kiểm tra đã giúp cấp ủy triển khai đợt sinh hoạt chính trị rộng rãi về phát thẻ đảng viên. Đảng bộ đã làm thí điểm phát Thẻ đảng viên nhân kỷ niệm 50 năm Ngày thành lập Đảng (3-2-1980) ở 6 Đảng bộ là: Đảng bộ Cơ quan Thị ủy; Xí nghiệp Cơ khí tỉnh, Xí nghiệp In Ba Đình, Liên hiệp Công đoàn, Ty Lao động; hợp tác xã Cơ khí Thành Công với số lượng 300 đồng chí. Sau đó, tiếp tục phát Thẻ đảng viên trong 3 đợt nữa (19-5; 2-9; 7-11). Qua 4 đợt đã tiến hành phát Thẻ cho 130/180 cơ sở Đảng (69,0%); đã có 6.228/9.154 đảng viên toàn Đảng bộ (68,3%) được phát Thẻ đảng viên. Những đơn vị được phát Thẻ đảng viên đều có những chuyển biến tích cực trong việc gắn công tác xây dựng Đảng với thực hiện nhiệm vụ chính trị. Các đơn vị chưa được phát Thẻ đã tích cực phấn đấu củng cố tổ chức cơ sở Đảng và rèn luyện phẩm chất đảng viên. Đến cuối năm 1980, toàn Đảng bộ có 9 tổ chức cơ sở Đảng đạt danh hiệu "trong sạch vững mạnh", 160 đơn vị khá, 16 đơn vị còn yếu.
Để làm tốt công tác phát triển Đảng, Ban Tuyên huấn kết hợp với Thị Đoàn mở các lớp bồi dưỡng lý luận chính trị cho các đoàn viên ưu tú theo chương trình trung, sơ cấp lý luận. Năm 1980 mở được 4 lớp với 980 học viên, trong 2 năm 1979-1980 đã có 1.730 đối tượng được bồi dưỡng. Nhờ đó năm 1980 đã kết nạp được 315 đảng viên mới, tăng gấp hơn 2 lần so với năm 1979. Chất lượng nguồn kết nạp được coi trọng, số đông là đoàn viên ưu tú, lao động tiên tiến, có những người đã nhiều năm đạt danh hiệu Chiến sĩ thi đua. Đến năm 1981, Đảng bộ có 9.154 đảng viên (đa số cán bộ, đảng viên được kết nạp và tôi luyện, thử thách qua hai cuộc kháng chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội), nhìn chung vững vàng về chính trị, có phẩm chất đạo đức cách mạng tốt.
Qua hoạt động thực tiễn, nhiều đảng viên đã nhanh chóng trưởng thành, song cũng còn một bộ phận nhỏ thoái hóa biến chất, làm hạn chế nhất định đến chất lượng lãnh đạo của tổ chức Đảng cơ sở. Được sự chỉ đạo chặt chẽ của Ban Thường vụ, Ủy ban Kiểm tra Thị ủy đã kịp thời có những hình thức xử lý kỷ luật theo quy định của Điều lệ Đảng. Năm 1980 đã xử lý 183 vụ kỷ luật (chiếm 2% tổng số đảng viên), trong đó khai trừ Đảng 66 đảng viên và nhiều hình thức kỷ luật khác đối với những đảng viên vi phạm nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng và pháp luật Nhà nước.
Cùng với đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, Đảng bộ quan tâm chỉ đạo xây dựng tổ chức bộ máy chính quyền và các đoàn thể quần chúng trong sạch vững mạnh. Trên cơ sở chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật Nhà nước, các nghị quyết của Đảng bộ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân Thị xã đã có những chính sách đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển kinh tế-xã hội của địa phương. Thị xã đã tiến hành tốt các khóa bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, kiện toàn tổ chức bộ máy chính quyền cơ sở, bảo đảm vai trò quản lý kinh tế và xã hội ở địa phương. Các ban chuyên môn của Ủy ban nhân dân đã đi vào trọng tâm công tác của ngành mình, phối hợp với các ngành có liên quan để thực hiện chủ trương chung của ngành mình, cấp mình và bước đầu khắc phục biểu hiện trông chờ, đùn đẩy, ỷ lại.
Các đoàn thể đã chú ý giáo dục đoàn viên, hội viên quán triệt các nghị quyết của Đảng và động viên thi đua, thực hiện có kết quả các mục tiêu kinh tế - xã hội.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Tổng Công Đoàn Việt Nam lần thứ 7 khóa IV (1978) về xây dựng Công đoàn cấp huyện, thị, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, Liên đoàn lao động tỉnh, Thị ủy đã trực tiếp chỉ đạo xây dựng tổ chức Liên đoàn Lao động Thị xã. Công đoàn phát huy vai trò giám sát nói chung và tham gia tổ chức đời sống công nhân viên chức lao động. Năm 1980 đã tiến hành 52 lượt kiểm tra các cửa hàng, đề xuất hàng trăm kiến nghị về phân phối lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng cho người lao động.
Đoàn thanh niên tiếp tục động viên tuổi trẻ hưởng ứng phong trào thi đua “Ba xung kích làm chủ tập thể” do Trung ương Đoàn phát động (tháng 1-1978). Sau khi xảy ra chiến tranh biên giới (17-2-1979), Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Lời kêu gọi toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Đáp Lời kêu gọi của Đảng, tuổi trẻ Thị xã cùng tuổi trẻ toàn tỉnh Thanh Hóa hăng hái tình nguyện ghi tên lên đường chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.
Đoàn thanh niên Thị xã đã tổ chức cho các đoàn viên thanh niên đăng ký tham gia các đội xung kích; tổ chức các buổi sinh hoạt theo chủ đề “Tuổi trẻ với Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”, “Tuổi trẻ bàn việc nước”, “Học tập Lê Đình Chinh, hành dộng như Lê Đình Chinh”, lực lượng dân quân tự vệ tổ chức hội trại “Tuổi trẻ giành đỉnh cao hai giỏi”,... Đoàn viên thanh niên Thị xã cùng với đoàn viên thanh niên toàn tỉnh vừa hăng hái tham gia sản xuất, vừa học tập, vừa luyện tập quân sự, với khẩu hiệu: “Xung kích trong chiến đấu và sằn sàng chiến đấu”, “Xung kích trong lao động, xây dựng đất nước”, “Xung kích trong học tập, rèn luyện xây dựng cuộc sống”; tích cực tổ chức ngày “Lao động cộng sản”, thực hiện phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, hướng dẫn Thiếu niên nhi đồng thực hiện tốt phong trào “Trần Quốc Toản”...
Đảng bộ lãnh đạo tổ chức Đoàn các cấp quan tâm chỉ đạo thực hiện tốt Nghị quyết số 17-NQ/TU, ngày 16-10-1981 Về công tác vận động thanh niên, nhằm phát huy mạnh mẽ vai trò xung kích làm chủ tập thể của thanh niên, phấn đấu thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị; tăng cường giáo dục cộng sản chủ nghĩa cho thanh niên một cách toàn diện, cả về lý tưởng cách mạng, khoa học kỹ thuật, văn hóa, nghiệp vụ; tổ chức tập hợp, đoàn kết rộng rãi thanh niên xây dựng Đoàn vững mạnh; đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn Đoàn tham gia xây dựng Đảng”; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nêu cao trách nhiệm của chính quyền, các ngành đối với công tác thanh niên...
Đoàn Thanh niên đã quan tâm công tác kết nạp phát triển đoàn viên và chú ý công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đoàn các cấp. Năm 1980, đã kết nạp 2.050 đoàn viên mới, mở lớp bồi dưỡng công tác Đoàn cho 400 ủy viên Ban Chấp hành Đoàn cơ sở.
Hưởng ứng phong trào thi đua “Người phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” do Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phát động (ngày 8-3-1978), dưới sự lãnh đạo của Thị ủy, Ủy ban nhân dân Thị xã và của Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh, phụ nữ Thị xã đã tích cực tham gia phong trào với các nội dung cụ thể, như: “Lao động sản xuất, tiết kiệm, chấp hành chính sách tốt”, “Sẵn sàng phục chiến đấu và chiến đấu, động viên chồng, con, em đi chiến đấu”, “Tổ chức gia đình tốt, nuôi dạy con theo 5 điều Bác Hồ dạy”, “Đoàn kết, học tập, thương yêu giúp nhau cùng tiến bộ”.
Phụ nữ Thị xã tích cực hưởng ứng phong trào “Mùa Đông chiến sĩ hướng về tiền phương” do Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam phát động, bằng các việc làm thiết thực: mua sắm chăn bông, áo len, khăn len, cử đoàn đại biểu đi thăm và tặng quà các chiến sĩ đang làm nhiệm vụ bảo vệ biên giới, quần đảo Trường Sa; đóng góp tiền của cùng nhân dân địa phương xây dựng nhà tình nghĩa, trao tặng các gia đình thương binh, liệt sĩ; đỡ đầu con liệt sĩ. Hội Phụ nữ Thị xã qua các phong trào đã động viên hội viên các cấp tích cực lao động sản xuất và thực hành tiết kiệm, chăm lo bà mẹ trẻ em. Đã có 52% số hội viên đạt 4 nội dung thi đua của phong trào, 9 chi hội đạt danh hiệu tiên tiến...
Hệ thống tổ chức bộ máy Ủy ban Mặt trận Tổ quốc được kiện toàn một bước với việc thành lập hệ thống tổ chức ở các tiểu khu, khu phố, các xã. Mặt trận Tổ quốc đóng vai trò tích cực trong công tác xây dựng Đảng, chính quyền và thúc đẩy các phong trào thi đua của quần chúng nhân dân. Các cụ phụ lão đã gương mẫu đi đầu trong phong trào trồng cây, trồng dược liệu, chăm sóc giáo dục con cháu.
Hội Nông dân tập thể được thành lập, đến năm 1980 đã kết nạp được 6.158 hội viên. Hội đóng vai trò nòng cốt trong vận động hội viên, người nông dân thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển.
Trong 5 năm thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976-1980), bên cạnh những thuận lợi, Thị xã còn gặp rất nhiều khó khăn do thiên tai gây ra; hầu như năm nào cũng bị thiên tai nặng nề. Tuy vậy, bằng sự nỗ lực vượt bậc của các tầng lớp nhân dân, bằng những chủ trương kịp thời, đúng đắn, Đảng bộ Thị xã đã lãnh đạo phát triển sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, phát triển văn hóa; kịp thời khắc phục những thiệt hại do bão, lũ lụt gây ra. Đời sống của các tầng lớp nhân dân tuy còn khó khăn, nhưng không xảy ra nạn đói. An ninh chính trị được giữ vững, nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Đảng bộ trưởng thành, có thêm kinh nghiệm lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị.
Song, so với mục tiêu, kế hoạch mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XI đề ra, tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của Thị xã còn chậm. Là một Thị xã trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của cả tỉnh, sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp được xác định là trung tâm, nhưng tốc độ tăng trưởng hàng năm có xu hướng chậm lại. Trong 3 năm 1975-1978 tốc độ tăng chỉ đạt 1,9%, năm 1980 chỉ đạt 88,8% so với năm 1978.
Nguyên nhân của tình hình trên một mặt là do hậu quả chiến tranh; mặt khác, thiên tai xảy ra liên tiếp, việc phân cấp và những điều kiện cần có để thực hiện chức năng lãnh đạo, quản lý toàn diện Thị xã từ thời kỳ chiến tranh sang hòa bình, xây dựng, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cần có thời gian hình thành.
Đến năm 1980, Thị xã cũng như tỉnh Thanh Hóa và các địa phương trong phạm vi cả nước lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, đòi hỏi phải có những tìm tòi, đổi mới để thoát khỏi những khó khăn gay gắt về kinh tế-xã hội, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân.
II. THÁO GỠ KHÓ KHĂN, BƯỚC ĐẦU THỰC HIỆN ĐỔI MỚI CƠ CHẾ QUẢN LÝ KINH TẾ, ỔN ĐỊNH ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN (1981-1985)
Nhằm từng bước đưa nền kinh tế-xã hội nước ta ra khỏi tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng, củng cố lòng tin của quần chúng nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, Đảng ta đã có những tìm tòi, đổi mới từng phần trong các quyết sách phát triển kinh tế-xã hội.
Thực hiện chủ trương của Hội nghị Trung ương 6 khoá IV (tháng 8 – 1979) làm cho sản xuất “bung ra” đánh dấu bước đột phá đầu tiên của quá trình đổi mới ở nước ta, trên phạm vi cả nước đã có những “tín hiệu” mới trong chỉ đạo từng bước đổi mới các quan hệ kinh tế, nhất là đổi mới lưu thông phân phối, khắc phục tình trạng khan hiếm hàng hóa và tiến tới xây dựng một thị trường thông suốt, tạo động lực phát triển của các ngành sản xuất.
Tháng 10-1979, Chính phủ ban hành Quyết định 373/CP và 347/CP về xóa bỏ các trạm kiểm soát có tính “ngăn sông cấm chợ”. Mở lối cho các loại sản phẩm được trao đổi trên thị trường tự do, theo giá thỏa thuận sau khi đã nộp đủ nghĩa vụ cho Nhà nước. Tháng 6-1980, Bộ Chính trị họp hội nghị chuyên bàn về cải tiến chính sách phân phối lưu thông và ngày 23-6-1980, ra Nghị quyết số 26-NQ/TW về Cải tiến công tác phân phối và lưu thông (tài chính, tiền tệ, giá cả, tiền lương, thương nghiệp và quản lý thị trường). Tháng 2-1981, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 9 (khóa IV), ra Nghị quyết về phương hướng, nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 1981. Hội nghị chủ trương phải sửa chữa các khuyết điểm trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội, nhất là phải đổi mới công tác kế hoạch hóa và cải tiến một cách cơ bản chính sách kinh tế làm cho sản xuất "bung ra" theo phương hướng kế hoạch hóa của Nhà nước.
Tháng 3-1982, đã diễn ra Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng. Trên cơ sở phân tích tình hình trong và ngoài nước, đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội IV, tình hình thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ 2 (1976-1980), Đại hội đã đề ra hai nhiệm vụ chiến lược trong giai đoạn cách mạng mới: Một là, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội; Hai là, sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V có ý nghĩa quan trọng trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội của đất nước ta. Đại hội tự phê bình và phê bình thẳng thắn, nghiêm túc những khuyết điểm, yếu kém của Đảng trong lãnh đạo quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Đại hội bước đầu đổi mới tư duy, khi nhấn mạnh, nông nghiệp là mặt trận hàng đầu trong chặng đường trước mắt, coi ổn định tình hình kinh tế - xã hội là nhiệm vụ bức thiết nhất.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội V của Đảng và các quan điểm, chính sách mới của Nhà nước, của Tỉnh ủy trên lĩnh vực kinh tế, Đảng bộ Thị xã và Thường vụ Thị ủy đã lần lượt có những Nghị quyết về các lĩnh vực sản xuất, lưu thông... nhằm thúc đẩy người lao động và các cơ sở kinh tế quan tâm đến sản xuất và kinh doanh. Phương hướng, nhiệm vụ năm 1981 và các năm tiếp theo được Đảng bộ đề ra là: "Đẩy mạnh sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp và nông nghiệp, trên cơ sở kết hợp cơ giới và thủ công, thực hiện nghiêm ngặt chế độ tiết kiệm, tăng cường quản lý thị trường, đấu tranh chống đầu cơ buôn lậu, điều tiết thu nhập của các bộ phận dân cư theo hướng tăng thu nhập cho người lao động sản xuất giỏi; đẩy mạnh cách mạng tư tưởng văn hóa, tăng cường phổ biến khoa học kỹ thuật và áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, kiên quyết đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực mà trọng tâm là bảo vệ an ninh chính trị, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, tạo chuyển biến sâu sắc về công tác tổ chức cán bộ và tích cực sửa đổi lề lối làm việc, hoàn thành việc phát Thẻ đảng viên, xây dựng các Đảng bộ, chi bộ vững mạnh".
Bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ ba (1981-1985), trước những khó khăn về sản xuất như thiếu nguyên, nhiên liệu, điện, phân bón và tình trạng thiếu lương thực, thực phẩm làm cho đời sống nhân dân ngày càng khó khăn gay gắt và các tiêu cực ngoài xã hội phức tạp hơn, Thị ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân Thị xã đã có những biện pháp để khôi phục và phát triển sản xuất, ổn định đời sống nhân dân.
Trước hết về sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (khóa IV) và Quyết định 25/CP, 26/Cp của Chính phủ, Thị ủy đã có những biện pháp lãnh đạo và chỉ đạo chặt chẽ, kiểm tra thường xuyên, phát động phong trào thi đua liên tục. Các cấp ủy cơ sở quán triệt và triển khai kịp thời các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên, chuyển hướng sản xuất, cải tiến quản lý, thực hiện khoán tiền lương, tiền thưởng, tiết kiệm vật tư, tự lo giải quyết nguyên vật liệu, đảm bảo 3 lợi ích: Nhà nước, tập thể và người lao động. Do vậy, đã đảm bảo được đời sống công nhân, duy trì được sản xuất.
Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ VIII. Trang 14.
Nghị quyết số 07- NQ/TU ngày 17-10-1975 của Ban Chấp hành Đảng bộ Thị xã, lưu tại Văn phòng Thành ủy Thành phố Thanh Hóa. Trang 4.
Nghị quyết Ban Chấp hành Đảng bộ Thị xã về nhiệm vụ, chủ trương, biện pháp công tác cán bộ trong thời gian tới. Trang 3.
Báo cáo của Ban Chấp hành Đảng bộ Thị xã Thanh Hóa tại Đại hội đại biểu khóa X (6-1977).
Nghị quyết số 02 NQ/TU ngày 19-9-1977. Lưu tại Văn phòng Thành ủy Thanh Hóa.
Dứt điểm 3 công trình: vệ sinh - giếng nước, nhà tắm, hố tiêu; Dứt điểm về sinh đẻ có kế hoạch; Dứt điểm về việc trồng và sử dụng thuốc nam; Dứt điểm về quản lý sức khỏe nhân dân; Dứt điểm về kiện toàn bộ máy y tế cơ sở.
Báo cáo của Ban Chấp hành tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Thị xã Thanh Hóa lần thứ XI. Lưu tại Văn phòng Thành ủy thành phố Thanh Hóa.
Báo cáo của Ủy ban Kiểm tra Thị ủy, số 05 KT/UBTX, ngày 25-5-1981.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo tổng kết Một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 20 năm đổi mới ( 1986 – 2006), Nxb CTQG, tr 39.
Sđd, tr.51, 52
Báo cáo tổng kết năm 1980 phương hướng nhiệm vụ năm 1981. Trang 16. Lưu tại Văn phòng Tỉnh ủy.
Ngành tiểu thủ công nghiệp đã phấn đấu vượt qua khó khăn để duy trì sản xuất, một số cơ sở đã kịp thời chuyển hướng sản xuất, đầu tư trang thiết bị kỹ thuật, thực hiện khoán, cải tiến cơ chế quản lý cho phù hợp.
Thực hiện Chỉ thị 100 của Ban Bí thư và quan điểm coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu của Đại hội V, công tác khoán sản phẩm trong nông nghiệp được tăng cường, từng bước hoàn thiện đã khuyến khích mạnh mẽ người lao động hăng hái sản xuất, áp dụng tiến bộ kỹ thuật, đặc biệt là sử dụng giống mới, chủ động tạo thêm nguồn phân bón, tích cực thâm canh… Nhờ đó mà sản xuất nông nghiệp tăng nhanh cả về năng suất và sản lượng. Sản lượng lương thực tăng trên tất cả các vùng, vượt kế hoạch Nhà nước. Do đó, chăn nuôi cũng có điều kiện phát triển.
Trên cơ sở nắm vững đặc điểm, tình hình sản xuất nông nghiệp của Thị xã khi bước vào thực hiện kế hoạch năm 1981 và 5 năm 1981-1985[1], Thường vụ Thị ủy đã kịp thời tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết của Đảng đến từng Đảng bộ và các tổ chức quần chúng. Vận dụng cụ thể trên địa bàn Thị xã, Thị ủy chủ trương cho 2 hợp tác xã Đông Hải và Đông Vệ được điều chỉnh quy mô hợp tác xã (mỗi đơn vị lập 3 hợp tác xã), đồng thời tiến hành thực hiện cơ chế khoán mới ở 6 hợp tác xã, là: Vạn Sơn, Thành Đồng, Lễ Môn, Tạnh Xá, Quảng Đại, Mật Sơn. Vụ chiêm năm 1981 Thị ủy tiến hành chỉ đạo thực hiện khoán ở hợp tác xã Quảng Thắng, Đông Thọ, vụ mùa năm 1981 tiến hành ở 5 hợp tác xã còn lại. Chủ trương đó đã kịp thời, đáp ứng nguyện vọng và lợi ích của xã viên. Do đó, 13/13 hợp tác xã trong Thị xã đã thực hiện "khoán 100" toàn bộ diện tích lúa chiêm xuân. Các hợp tác xã được tiến hành khoán, xác định diện tích, năng suất, đối tượng nhận khoán và rà soát lại phương hướng sản xuất kinh doanh. Xã Đông Hải khoán khâu làm đất; xã Đông Thọ tổ chức đội chuyên canh giống lúa cho tập thể; Phú Sơn khoán chăn nuôi; Đông Hương khoán lao động làm công tác bảo vệ thực vật.
Thị xã đã xây dựng mới 5 km kênh tưới tiêu, 3 trạm bơm điện, nhà để giống lúa; mua 5 máy Bông Sen và chú ý cải tạo đồng ruộng. Trạm Vật tư và Công ty Dịch vụ nông nghiệp được thành lập, đóng vai trò cung ứng kịp thời các loại vật tư, thuốc phòng trừ sâu bệnh cho lúa, hoa màu và phòng dịch cho gia súc.
Nhờ khoán mới phù hợp với nguyện vọng của nông dân, nên mặc dù nguồn vật tư cung ứng vẫn còn hạn chế, thiên tai diễn biến phức tạp, diện tích gieo trồng giảm 133 ha (do mở đường, làm nhà ở, xây dựng các công trình thủy lợi), nhưng sản lượng lương thực, làm nghĩa vụ cho Nhà nước và đời sống nhân dân vẫn ổn định theo hướng đi lên: năm 1981 sản lượng lương thực đạt 5.970 tấn và năm 1982 đạt 6.000 tấn. Tổng mức huy động lương thực năm 1982 đạt 2.000 tấn. Bình quân lương thực đầu người tăng từ 9kg/tháng năm 1981 lên 11kg/tháng năm 1982. Do sản xuất lương thực tăng nên chăn nuôi có điều kiện phát triển, tổng đàn lợn trong các gia đình lên tới hàng ngàn con.
Bên cạnh tập trung ổn định và phát triển kinh tế, Đảng bộ Thị xã quan tâm xây dựng, củng cố hệ thống chính quyền, nhất là chính quyền cơ sở.
Năm 1985, Thị ủy đã lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện thắng lợi cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, qua đó tạo điều kiện phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực, góp phần xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh. Các ban chuyên môn của Ủy ban nhân dân Thị xã và cán bộ chuyên trách của các phường, xã được sắp xếp, bố trí lại, bảo đảm gọn nhẹ và hoạt động có hiệu quả hơn. Theo Quyết định số 3/CP ngày 3-4-1981 của Chính phủ, các Tiểu khu hành chính thuộc Thị xã gọi là phường. Thị xã lúc này gồm có 8 phường[2] và 5 xã.
Hoạt động của các đoàn thể hướng vào việc vận động đoàn viên, hội viên tham gia các phong trào thi đua yêu nước. Đặc biệt trong công nhân viên chức có phong trào thi đua phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật. Riêng khu vực công nghiệp nhờ có phong trào này, đã tiết kiệm được cho Nhà nước hàng triệu đồng.
Trong tổ chức Đoàn, phong trào phát huy sáng kiến diễn ra sôi nổi và năng động nhất. Đến năm 1982 có 162 cơ sở Đoàn, 13.700 đoàn viên trong tổng số 22.000 thanh niên. Qua hoạt động đã xuất hiện 3.100 đoàn viên ưu tú, 1.200 đoàn viên được giới thiệu để kết nạp Đảng.
Công tác xây dựng Đảng được quan tâm, tạo ra những tiến bộ mới. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Thường vụ Thị ủy, năm 1981 tiếp tục thực hiện phát Thẻ đảng viên vào 3 đợt (Ngày thành lập Đảng 3-2; Ngày sinh Bác Hồ 19-5; Quốc khánh 2-9) tại 105 chi bộ và Đảng bộ cơ sở bằng 55,2% và 4.436 đảng viên, chiếm tỷ lệ 48,3% so với tổng số đảng viên trong toàn Đảng bộ. Tính đến ngày 16-11-1981, toàn Đảng bộ đã phát thẻ đảng viên được 194/194 cơ sở với 8.839 đảng viên, chiếm 96% tổng số đảng viên trong toàn Đảng bộ. Đến đầu năm 1983, Đảng bộ có 9.362 đảng viên sinh hoạt ở 198 chi bộ; thực hiện chủ trương tổ chức, kiện toàn một bước tổ chức cơ sở đảng, tháng 10-1984 Đảng bộ bàn giao 49 cơ sở đảng cho Đảng ủy khối.
Thành tích đạt được trong hai năm đầu thực hiện Kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ ba cũng là hai năm hoàn thành nhiệm vụ mà Đại hội Đảng bộ Thị xã lần thứ XI đề ra. Đảng bộ Thị xã đã từng bước khẳng định sự trưởng thành trong công tác lãnh đạo.
Trên cơ sở những thành tựu đã đạt được, quán triệt tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V và Dự thảo Đề cương báo cáo của Tỉnh ủy tại Đại hội Đảng bộ lần thứ XI, ngày 15-3-1983 Đại hội đại biểu Đảng bộ Thị xã Thanh Hóa lần thứ XII (vòng 2) đã khai mạc trọng thể tại Hội trường Thị ủy, 339 đại biểu thay mặt cho 9.123 đảng viên ở 194 cơ sở Đảng đã về dự đông đủ. Đồng chí Bí thư Tỉnh ủy đã về chỉ đạo Đại hội. Đại hội đã nghe báo cáo tổng kết nhiệm kỳ XI và phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu 3 năm (từ 1983 đến 1985) của Đảng bộ.
Căn cứ đặc điểm, tình hình của Thị xã, Đại hội đề ra mục tiêu chung và những mục tiêu cụ thể về phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương và xác định rõ nhiệm vụ chủ yếu trong ba năm 1983-1985: "Ra sức nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, tăng cường hiệu lực quản lý hành chính nhà nước, quản lý xã hội và quản lý kinh tế, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ xã hội chủ nghĩa của nhân dân lao động; thực hiện một sự chuyển biến căn bản về tập trung sức đẩy mạnh sản xuất công nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp, nông nghiệp, vận tải mà trọng tâm là sản xuất tiểu, thủ công nghiệp và vận tải, lo đủ việc làm cho người lao động. Phấn đấu ổn định đời sống nhân dân về vật chất và có phần được cải thiện về tinh thần. Xây dựng nếp sống sản xuất công nghiệp, lối sống lành mạnh, giản dị, tiết kiệm. Đề cao cảnh giác cách mạng, kiên quyết đánh thắng kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của kẻ thù, gắn liền với chống tiêu cực, nhằm giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, từng bước xây dựng Thị xã Thanh Hóa thành một đơn vị giàu về kinh tế, vững về chính trị, mạnh về an ninh, quốc phòng và đẹp về văn hóa"[3].
Từ phương hướng, nhiệm vụ chung đó, tập trung xây dựng Thị xã trên ba mặt công tác lớn:
- Tổ chức lại ngành nghề tiểu, thủ công nghiệp, phát triển mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, đảm bảo việc làm cho mọi người lao động, tổ chức tốt đời sống nhân dân.
- Thực hiện quốc phòng toàn dân, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự xã hội, xây dựng nếp sống mới, kiên quyết đấu tranh đánh bại kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của kẻ địch gắn liền với chống tiêu cực.
- Ra sức xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh.
Sau 4 ngày làm việc (từ ngày 15 đến 18-3-1983), Đại hội đã hoàn thành chương trình nghị sự. Đại hội bầu Ban Chấp hành, gồm 33 ủy viên chính thức và 2 ủy viên dự khuyết. Ban Chấp hành đã bầu đồng chí Hoàng Tạ làm Bí thư; bầu đồng chí Ngô Đức Kính, Trần Văn Lãm làm Phó Bí thư.
Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XI (nhiệm kỳ 1983-1985), từ ngày 28-3 đến 1-4-1983, đã xác định phương hướng, nhiệm vụ của tỉnh trong những năm 1983-1985:
Đổi mới cách làm, phát huy tiềm năng, thế mạnh của 4 vùng kinh tế, coi trọng năng suất, chất lượng và hiệu quả, sản xuất ra nhiều hàng hóa, nhất là lương thực, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, xây dựng văn hóa và nếp sống mới, ổn định và dần nâng cao đời sống nhân dân, tăng cường quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Nâng cao cảnh giác trước mọi âm mưu, thủ đoạn của địch, phát động quần chúng xây dựng lực lượng sẵn sàng chiến đấu, chủ động tiến công, phòng ngừa đập tan kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của kẻ địch, gắn liền với đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tiêu cực. Tăng cường hơn nữa quốc phòng-an ninh; đồng thời, làm tốt nhiệm vụ chi viện cho tiền tuyến và làm nghĩa vụ quốc tế.
Tăng cường công tác xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh, lãnh đạo thực hiện thắng lợi 2 nhiệm vụ chiến lược.
Những năm 1983 – 1985, kinh tế-xã hội của Thị xã cũng như cả nước nói chung, lâm vào khủng hoảng ngày càng nặng nề. Sản xuất trì trệ, nhiều mặt sa sút, nhất là sản xuất lương thực; những động lực do khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động theo Chỉ thị 100 của Ban Bí thư chưa đủ sức đưa kinh tế nông nghiệp ra khỏi khó khăn. Dân số tăng nhanh; đời sống nhân dân, đặc biệt là những người ăn lương, lực lượng vũ trang, gặp khó khăn gay gắt.
Trong hoàn cảnh đó, thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XII, Đảng bộ Thị xã đã lãnh đạo cán bộ, đảng viên và nhân dân nỗ lực phấn đấu, vượt qua nhỉều khó khăn, tập trung ổn định và phát triển sản xuất tiểu thủ công nghiệp, gắn với giải quyết việc làm, ổn định đời sống của người lao động.
Sau ba năm phấn đấu, vượt qua nhiều khó khăn gian khổ, Đảng bộ và nhân dân Thị xã Thanh Hóa đạt được những kết quảquan trọng trên tất cả các lĩnh vực.
Sản xuất công nghiệp tuy thiếu nguyên vật liệu, năng lượng, hệ thống chính sách kinh tế mới chưa hoàn thiện, song nhờ tinh thần chủ động, sáng tạo của các đơn vị và chuyển hướng sản xuất, tìm kiếm mặt hàng mới, tăng cường liên kết kinh tế, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, sắp xếp hợp lý lao động nên đã hoàn thành kế hoạch Nhà nước, từng bước ổn định đời sống cán bộ, công nhân viên chức. Nhiều đơn vị sản xuất đã có những tìm tòi, đổi mới, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tiêu biểu là Xí nghiệp in Ba Đình, Điện Cơ, Xí nghiệp Dược phẩm, Gỗ Điện Biên,... Xí nghiệp in Ba Đình đã có nhiều đổi mới máy móc, trang thiết bị, Đảng ủy, Ban Giám đốc, Công đoàn Xí nghiệp đẩy mạnh phong trào thi đua phát huy sáng kiến, cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất. Nhờ đó, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, được khách hàng tín nhiệm.
Trên cơ sở Nghị quyết 07-NQ/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về "Phát triển sản xuất tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp", Ban Chấp hành Đảng bộ Thị xã đã cụ thể hóa và ra Nghị quyết 01 NQ/TU ngày 5-1-1984 về "Củng cố và phát triển sản xuất tiểu, thủ công nghiệp" trên địa bàn Thị xã, trong đó nhấn mạnh: "Việc củng cố hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa gắn liền với mở mang ngành nghề để phát triển sản xuất tiểu, thủ công nghiệp và giải quyết việc làm cho người lao động. Đây là nhiệm vụ vừa cấp bách vừa trung tâm cơ bản lâu dài..."[4]. Mặc dù có nhiều khó khăn về năng lượng, chính sách, giá cả, số đông hợp tác xã đều duy trì sản xuất.
Điểm nổi bật ở các phường, xã là bắt đầu tổ chức lại sản xuất thủ công nghiệp. Phường Ngọc Trạo thành lập Ban Kinh tế của phường và thành lập hợp tác xã "20-8"; 8 phường, xã có hợp tác xã liên ngành, 7 phường, xã tổ chức được dạy nghề cho 360 lao động và làm mây, tre, cói xuất khẩu, một số trường phổ thông đã dạy nghề mây tre xuất khẩu cho học sinh.
Thị ủy chỉ đạo các ngành phát triển gần 50 mặt hàng mới phục vụ cho tiêu dùng và xuất khẩu, trong đó năm 1985 có 17 mặt hàng có giá trị như rút thép, đóng mới xà lan, săm lốp xe đạp, mạ, vải giả da, thảm đay, găng tay xuất khẩu... Nhiều đơn vị đã có biện pháp ngăn chặn được tình trạng sa sút, yếu kém kéo dài trong sản xuất, bước đầu củng cố và tiến lên như các hợp tác xã Đoan Hùng, Tiến Lập, Tân Hưng. Có những hợp tác xã, như: Toàn Thành, Nam Kỳ 40, Sao Đỏ... đã năng động mở rộng liên kết, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm đem lại hiệu quả sản xuất ngày một cao.
Trong 3 năm, ngành đã đầu tư 1,3 triệu đồng mua sắm trang thiết bị sản xuất, thu hút trở lại 1.600 người lao động. Tính chung, giá trị tổng sản lượng của ngành tăng bình quân hàng năm là 8%.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để phát triển, đảm bảo duy trì sản xuất và đời sống cho người lao động, nhưng công suất ở các xí nghiệp quốc doanh, hợp tác xã mới chỉ đạt 40-50%, giữa quốc doanh và hợp tác xã chưa có sự liên kết chặt chẽ để hỗ trợ và phát huy năng lực, thiết bị kỹ thuật, tận dụng tay nghề. Trong quan hệ sản xuất, nhiều đơn vị chưa được củng cố, hoàn thiện, quản lý lỏng lẻo, định mức tùy tiện, hạch toán hình thức. Do vậy, hiệu quả kinh tế thấp, tốc độ phát triển tiểu - thủ công nghiệp còn chậm so với tiềm năng của Thị xã.
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thị xã lần thứ XII, nhiệm kỳ 1983-1985, đề ra mục tiêu giá trị tổng sản lượng đạt 200 triệu đồng trong năm 1985, nhưng mới đạt 79%. Trong cơ cấu kinh tế Thị xã, tỷ trọng giá trị tổng sản lượng sản xuất công nghiệp và tiểu, thủ công nghiệp giảm dần
Chỉ tiêu | 1980 | 1981 | 1982 | 1984 | 1985 |
Tổng số | 100% | 100% | 100% | 100% | 100% |
Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp | 87,87% | 83,01% | 76,98% | 84% | 79,5% |
Nông nghiệp | 8,29% | 12,78% | 13,34% | 16% | 20,5% |
Vận tải | 3,84% | 4,21% | 9,18% |
Trong sản xuất nông nghiệp, qua 2 năm thực hiện "khoán 100", Thị ủy, Ủy ban nhân dân Thị xã đã tổ chức sơ kết rút kinh nghiệm. Qua kinh nghiệm thực tế các hợp tác xã, Thường vụ Thị ủy đã đánh giá: "Một số kết quả đạt được trong thời gian qua đã làm cho lực lượng sản xuất phát triển theo hướng đi lên, nhất là làm nghĩa vụ lương thực và ổn định đời sống". Tuy thế, "khoán 100" lúc này đã bộc lộ những nhược điểm vì chưa thoát khỏi cơ chế quản lý cũ trong nông nghiệp, hợp tác xã nông nghiệp vẫn bị ràng buộc trong cơ chế tập trung quan liêu. Số lớn hợp tác xã chưa chăm lo tổ chức, chỉ đạo các đội chuyên. Nhiều hộ xã viên không đạt sản lượng khoán, không giao đủ sản phẩm cho các hợp tác xã, nợ dây dưa kéo dài lên tới 250 tấn lương thực. Kinh tế các hộ gia đình rất khó khăn, chưa được tập thể quan tâm đúng mức. Nhiều cán bộ, đảng viên ít chú ý đến nhiệm vụ được giao, chỉ lo sản xuất khoán,v.v... Do vậy, đã hàng năm có hàng chục héc ta ruộng không giao được cho người lao động, xã viên trả lại ruộng khoán,... Số hợp tác xã thực hiện "khoán trắng" tăng lên, v.v...
Thực hiện Chỉ thị 01 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về "Sửa chữa những lệch lạc trong thi hành Chỉ thị 100", Ban Thường vụ Thị ủy đã kịp thời triển khai tới mọi cán bộ, đảng viên, xã viên các hợp tác xã nông nghiệp. Đồng thời, đề ra chủ trương, biện pháp tiếp tục thi hành Chỉ thị 100, Chỉ thị 01 và Nghị quyết 154/NQ-HĐBT về hoàn chỉnh khoán mới trong sản xuất nông nghiệp. Ban Thường vụ Thị ủy nhấn mạnh: "Tiếp tục sửa chữa những lệch lạc trong khoán sản phẩm một cách nghiêm túc, triệt để, yêu cầu các cấp ủy Đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên nắm vững đầy đủ nội dung, yêu cầu của Chỉ thị 100 CT/TW và có biện pháp sửa ngay trong vụ mùa 1984 những vấn đề mà Chỉ thị 01-CT/TU đã đề ra, trên cơ sở đó phấn đấu đạt mục tiêu 7.800 tấn lương thực; 370 tấn rau, 375 tấn thịt lợn hơi năm 1984 và mục tiêu năm 1985 mà Đại hội Đảng bộ Thị xã lần thứ XII đề ra"[5].
Để tiếp tục chỉ đạo cải tiến cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp, khắc phục những hạn chế trong thực hiện khoán trong nông nghiệp, Ủy ban nhân dân Thị xã tổ chức một số đoàn cán bộ hợp tác xã đi tham quan học tập các điển hình tiên tiến ở hợp tác xã Xuân Thành (Thọ Xuân), Hải Hậu (Nam Định). Cùng với chấn chỉnh công tác khoán, tăng cường trao đổi kinh nghiệm, Thị ủy, Ủy ban nhân dân Thị xã chỉ đạo ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp-dịch vụ, xây dựng kế hoạch cung cấp các loại vật tư cho nông nghiệp.
Phong trào làm thủy lợi trong các xã, hợp tác xã diễn ra sôi nổi. Nhờ hệ thống thủy lợi được tăng cường, nên diện tích canh tác được chủ động nước tưới tăng từ 2.300 ha lên 2.500 ha; diện tích tiêu nước từ 3.173 ha lên 3.523 ha.
Các hợp tác xã tăng cường áp dụng tiến bộ về cơ cấu giống mới và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật thâm canh, mang lại hiệu quả sản xuất cao hơn.
Nhờ có những biện pháp đồng bộ nên những năm 1983-1985, diện tích, năng suất và sản lượng lương thực đều tăng: Bình quân hàng năm năng suất đạt 60 tạ/ha, tổng sản lượng lương thực đạt 7.559 tấn, huy động lương thực cho Nhà nước 2.494 tấn. So với bình quân 3 năm trước đó, tăng 41% về năng suất; 38% về sản lượng và 43% về huy động lương thực[6].
Sản lượng nông nghiệp phát triển, thúc đẩy ngành chăn nuôi phát triển. Cuối năm 1984, Thị xã xây dựng xong Trại gà Đông Thọ; tổng đàn trâu đạt 984 con; đàn lợn 9.732 con; dện tích nuôi cá lên tới 141,2ha.
Năm 1985 là năm kết thúc thực hiện kế hoạch 5 năm 1981-1985, là năm cuối thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thị xã lần thứ XII. Do đó, nhiệm vụ, kế hoạch năm 1985 được các cấp ủy, chính quyền phấn đấu với mức cao nhất để thực hiện bằng được những mục tiêu kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh. Từ ngày 7 đến ngày 9-1-1985, Ban Chấp hành Đảng bộ Thị xã tổ chức Hội nghị mở rộng và ra Nghị quyết về phương hướng, nhiệm vụ năm 1985, khẳng định: "Mở rộng liên kết kinh tế với các huyện, thị trong và ngoài tỉnh, với các xí nghiệp quốc doanh. Tranh thủ sự hỗ trợ của các ngành cấp tỉnh, khai thác mạnh mẽ nguồn nguyên liệu địa phương để đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng, xuất khẩu và dịch vụ mà đi lên". Đồng thời, Nghị quyết chỉ ra những biện pháp thực hiện, trong đó, nhấn mạnh đến việc thực hiện 4 chế độ[7] cho cán bộ, đảng viên, các ban chuyên môn của Thị ủy, Ủy ban nhân dân, các ngành, đoàn thể trong toàn Thị xã.
Thực hiện các chủ trương, biện pháp kịp thời của Thị ủy, cán bộ, đảng viên và nhân dân Thị xã từng bước vượt qua những khó khăn chung của đất nước, chiến tranh phá hoại nhiều mặt của kẻ thù, cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, những thử thách do thiên tai gây ra để giành thắng lợi, góp phần vào thắng lợi chung của nhân dân toàn tỉnh trong thực hiện Kế hoạch 5 năm lần thứ ba.
Đến năm 1985, ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp đã tập trung duy trì, đẩy mạnh sản xuất. Giá trị tổng sản lượng của ngành tăng 8%.
Phân phối lưu thông có tiến bộ trong khâu thu mua, khai thác nguồn hàng, mở rộng mạng lưới bán hàng và cung ứng vật tư cho sản xuất. Năm 1985, doanh số mua vào đạt 315 triệu đồng, doanh số bán ra đạt 2.016 triệu đồng, so với năm 1982 tăng 6 lần.
Ngành giao thông vận tải có nhiều chuyển biến theo hướng tích cực: đóng mới 1.220 tấn phương tiện vận tải thủy và 300 tấn phương tiện vận tải bộ. Bình quân hàng năm thực hiện vận chuyển 230.000 tấn hàng; thực hiện vận chuyển 18 triệu tấn/km hàng hóa phục vụ sản xuất. Đồng thời, phát triển được 1.857 tấn phương tiện cơ giới, thu hút thêm 270 lao động vào ngành.
Trong công tác tài chính, ngân sách, đã xây dựng được ngân sách địa phương, cân đối thu chi, hướng việc chi vào mục tiêu phát triển sản xuất. Ngành ngân hàng đã có những chuyển biến trong hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng, thanh toán,...
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa V về giá, lương tiền, thực hiện kế hoạch của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Thị ủy đã chỉ đạo hoàn thành công tác đổi tiền vào ngày 14-9-1985, bảo đảm chu đáo, bí mật, khẩn trương, thuận lợi theo đúng quy định trên địa bàn Thị xã.
Để góp phần giải quyết những khó khăn về nguồn vốn đầu tư phát triển sản xuất, những năm 1983-1985, công tác vận động quần chúng nhân dân gửi tiền tiết kiệm đã trở thành phong trào trên địa bàn Thị xã và toàn tỉnh Thanh Hóa. Dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, mạng lưới tín dụng cơ sở được mở rộng; Ban vận động gửi tiền tiết kiệm của Thị xã và các xã, phường được thành lập. Đông đảo nhân dân tham gia gửi tiền tiết kiệm dưới hình thức gửi vào “Quỹ bảo thọ”, “Bán thóc gửi tiền tiết kiệm”. Năm 1984, Thị xã là đơn vị dẫn đầu toàn tỉnh về số dư gửi tiền tiết kiệm, đạt 65,7 triệu đồng.
Xây dựng Thị xã theo quy hoạch đô thị được Đại hội lần thứ XII đặt ra là một trong những nhiệm vụ chính của Thị xã. Qua 3 năm (1983-1985), Thị xã được Trung ương và tỉnh đầu tư mở rộng Quốc lộ 1A đoạn chạy qua Thị xã, nối đường Lê Lợi tới PhườngLam Sơn, mở một số đường liên hương ở các xã Đông Vệ, Đông Thọ, Đông Hải. Chủ động khắc phục khó khăn, đầu tư xây dựng và đưa vào sử dụng cầu Quảng Thắng, cầu Đông Vệ, đường vào Xí nghiệp Gốm và xã Đông Hương. Xây dựng hệ thống cống rãnh thoát nước; cải tạo, xây dựng mạng lưới điện; hoàn thành xây dựng Nghĩa trang liệt sĩ.
Đến cuối năm 1985, Thị xã đã san lấp 1,6 ha đất, hình thành hai khu dân cư mới: Nam Cầu Sâng thuộc phường Nam Ngạn và Nam Cầu Bố thuộc phường Đông Vệ; phân chia 731 lô đất ở cho cán bộ và nhân dân, xây dựng một số cơ sở kinh tế mới, như: Công ty Vật tư và Xí nghiệp Than tổ ong, tiến hành lát vỉa hè phường Ba Đình, Điện Biên, Ngọc Trạo, v.v...
Mặc dù đời sống kinh tế còn khó khăn, nhưng sự nghiệp giáo dục của Thị xã luôn được quan tâm phát triển.
Đến năm học 1985-1986, Thị xã đầu tư xây dựng thêm 1.600m2 nhà trẻ, phòng học, đóng mới 1.800 bộ bàn ghế học sinh; toàn Thị xã có 18 trường phổ thông cơ sở với 585 lớp gồm 24.482 học sinh, tăng 40 lớp so với năm 1980; giảm số lớp học ca 3 từ 60 lớp năm học 1982-1983, còn 15 lớp năm học 1985-1986. Thực hiện cải cách hệ thống giáo dục phổ thông từ 10 năm thành 12 năm đạt kế hoạch. Chất lượng dạy và học ở nhà trẻ, mẫu giáo, trường phổ thông đều tăng. Toàn Thị xã có 8.000 cháu vào nhà trẻ, mẫu giáo; 28.500 học sinh phổ thông; 1.500 học viên bổ túc. Bình quân, cứ 3 người dân có 1 người đi học.
Hàng năm số học sinh lên lớp, chuyển cấp, vào đại học và đạt giải trong các kỳ thi học sinh giỏi đều cao. Năm 1984, em Ngô Thúc Anh đạt giải ba môn Toán quốc tế, là học sinh đạt giải Toán quốc tế đầu tiên của tỉnh Thanh Hóa.
Công tác y tế có những chuyển biến tích cực. Thị xã đầu tư xây dựng thêm 5 trạm xá xã, phường, mở rộng Bệnh viện Thị xã. Tăng cường đầu tư mua sắm thêm phương tiện y tế và thuốc chữa bệnh nhằm đảm bảo sức khỏe cho nhân dân, làm tốt việc phòng chống dịch bệnh.
Sự nghiệp văn hóa - thông tin tiếp tục phát triển. Phong trào xây dựng nếp sống mới gia đình văn hóa, tập thể văn minh được các phường, xã hưởng ứng sôi nổi. Hàng năm có 30 - 35% gia đình và tập thể đạt các danh hiệu văn hóa. Những năm 1981-1983, tiểu khu Hoàng Hoa Thám trở thành một trong những điển hình tiên tiến về phong trào thi đua thực hiện nếp sống văn hóa, xây dựng gia đình văn hóa. Năm 1983, Thị xã là một trong 10 đơn vị cấp huyện dẫn đầu tỉnh về phong trào này. Đến năm 1985-1986 đã hoàn thành xây dựng hệ thống truyền thanh Thị xã. Thư viện Thị xã và 20 tủ sách cơ sở, với tổng số 51.980 bản sách các loại phục vụ bạn đọc hàng năm. Phong trào thể dục thể thao phát triển mạnh. Năm 1985, Thị xã đã tổ chức thành công Đại hội thể dục thể thao toàn Thị xã lần thứ nhất.
Trong những năm 1981-1985, công tác an ninh-quốc phòng và đấu tranh chống tiêu cực được các cấp ủy, chính quyền địa phương xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm.
Công an Thị xã đã phối hợp với lực lượng quân đội thực hiện Nghị quyết số 31/NQ-TW, ngày 2-12-1980 của Bộ Chính trị Về công tác bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trong tình hình mới và Nghị quyết số 14/N Q-TU, ngày 10-2-1981 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Về nhiệm vụ an ninh-quốc phòng trong tình hình mới, với các hoạt động nổi bật: tăng cường giáo dục cho cán bộ, đảng viên các lực lượng vũ trang và nhân dân nhận thức sâu sắc quan điểm xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân trong tình hình mới là đặc biệt quan trọng; nhận rõ âm mưu thâm độc của địch và tính chất nguy hiểm của các loại tội phạm; phát động phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc ở địa bàn phường và các cơ quan, xí nghiệp, địa bàn xung yếu; tổ chức tập huấn công tác vận động quần chúng cho các đồng chí Trưởng, Phó công an phường, công an viên và bảo vệ cơ quan, xí nghiệp; xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố quốc phòng; tăng cường khả năng phòng thủ và khả năng chiến đấu; quan tâm củng cố các cơ sở yếu kém; tăng cường đấu tranh chống chiến tranh tâm lý chiến, chống các luận điệu xuyên tạc, phao tin đồn nhảm của kẻ xấu; tăng cường bảo vệ chính trị nội bộ; đẩy mạnh hoạt động phòng chống tội phạm hình sự; tập trung củng cố xây dựng lực lượng vũ trang, lực lượng công an nhân dân; tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đối với công tác quốc phòng-an ninh.
Từ năm 1984, thực hiện Nghị quyết 03, Nghị quyết 21 của Bộ Chính trị, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ra Nghị quyết 11 và chỉ đạo ngành công an, quân sự tỉnh phối hợp xây dựng phòng tuyến an ninh tại các khu vực trọng yếu. Triển khai kế hoạch, Thị ủy đã chỉ đạo phổi hợp xây dựng phòng tuyến an ninh ở các phường có cơ sở kinh tế và quốc phòng quan trong. Các phường thành lập Ban Chỉ đạo do đồng chí Bí thư Đảng ủy làm Trưởng ban. Tổ chức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân học tập, nắm vững mục đích, ý nghĩa và nội dung của công tác xây dựng phòng tuyến an ninh; kịp thời đấu tranh ngăn ngừa các luận điệu phản động, tâm lý chiến của địch, phao tin đồn nhảm, mê tín dị đoan, phát tán băng đĩa có nội dung phản động, đồi trụy; thành lập các đội thanh niên an ninh-quốc phòng; đưa đối tượng hình sự ra kiểm điểm, giáo dục trước nhân dân; lập hồ sơ đưa đi cải tạo một số đối tượng, làm trong sạch địa bàn.
Tổng kiểm tra hộ khẩu là một trong những công tác trọng tâm của quản lý Nhà nước về an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Năm 1984, kế hoạch tổng kiểm tra được triển khai xuống tận cán bộ chủ chốt trong tổ chức Đảng, chính quyền các phường, cơ quan, xí nghiệp. Các đơn vị đã lập hồ sơ, lập bản khai nhân khẩu; thông qua đó, phục vụ có hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, giúp cho lực lượng công an và chính quyền chấn chỉnh những sơ hở trong công tác quản lý nhân khẩu, hộ khẩu.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, hàng năm Ban Thường vụ Thị ủy đều có nghị quyết để triển khai thực hiện nhiệm vụ quốc phòng-an ninh.
Toàn hệ thống chính trị của Thị xã đã tổ chức thực hiện có kết quả công tác phòng, chống chiến tranh phá hoại nhiều mặt, gắn liền với chống tiêu cực, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, luôn luôn sẵn sàng chiến đấu đập tan âm mưu xâm lược của địch. Ngày 28-9-1984, Ban Thường vụ Thị ủy đã tổ chức hội nghị kiểm điểm việc thực hiện nhiệm vụ quốc phòng-an ninh từ năm 1976 và đề ra nhiệm vụ năm 1985. Trong đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, đội ngũ Công an được xây dựng từ Thị đến cơ sở làm nòng cốt phát động phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc. Việc nắm tình hình biến động nhân khẩu, hộ khẩu trên địa bàn được quan tâm, đã hoàn thành cơ bản công tác quản lý bằng hồ sơ. Việc quản lý và cải tạo tội phạm có hiệu quả.
Về công tác quân sự địa phương, đã củng cố lực lượng dân quân tự vệ rộng khắp. Cuối năm 1984, toàn Thị xã có 131/198 đơn vị với 23.917 người tham gia làm nòng cốt trong bảo vệ sản xuất và bảo vệ cơ sở. Hằng năm, Thị xã luôn hoàn thành 100% chỉ tiêu tuyển quân. Đến năm 1985, 20 năm liền Thị xã hoàn thành nhiệm vụ tuyển quân và gọi thanh niên nhập ngũ; thực hiện chính sách hậu phương quân đội được xếp loại khá.
Về xây dựng hệ thống chính trị, Đảng bộ đã lãnh đạo tổ chức thành công các cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, góp phần xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Từ sau Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ XII, Thị ủy đã lãnh đạo, chỉ đạo củng cố, kiện toàn một bước tổ chức bộ máy chính quyền Thị xã và các phường, xã. Đặc biệt, sau bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân hai cấp (tháng 5-1984), tổ chức bộ máy chính quyền được kiện toàn, vừa nâng cao chất lượng hoạt động, vừa thực hiện trẻ hóa đội ngũ cán bộ. Các cơ quan chuyên môn của chính quyền được củng cố, tăng thêm cán bộ; trẻ hóa một bước về tuổi đời, nâng cao trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật trong cơ cấu đội ngũ cán bộ, nhằm nâng cao hiệu lực điều hành của chính quyền các cấp.
Các tổ chức đoàn thể, chính trị - xã hội được củng cố và tăng cường.
Tháng 5-1983, sau khi Trung ương Đoàn phát động phong trào “Theo bước chân những người anh hùng”, thế hệ trẻ Thị xã đã sôi nổi hưởng ứng; tổ chức các đoàn tham quan di tích lịch sử cách mạng và văn hóa; tổ chức thi tìm hiểu về Cách mạng Tháng Mười Nga (1917), về Cách mạng Tháng Tám 1945, Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, Chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975; tổ chức học tập về Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại… Phong trào “hành quân theo bước chân những người anh hùng” được triển khai sâu rộng với các nội dung: Học tập phẩm chất đạo đức của Bác Hồ; Học tập và phát huy truyền thống kiên cường, bất khuất của các anh hùng liệt sĩ; Nâng cao cảnh giác cách mạng, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, rèn luyện thân thể bảo vệ Tổ quốc; Củng cố tổ chức Đoàn vững mạnh. Nhiều công trình thanh niên có ý nghĩa lớn về kinh tế-xã hội được đoàn viên thanh niên Thị xã đảm nhiệm…
Công đoàn, Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Mặt trận Tổ quốc làm nòng cốt trong tổ chức thực hiện các phong trào như tiết kiệm, huy động lương thực, an ninh-quốc phòng, quỹ bảo thọ, v.v...
Đáng chú ý, thực hiện Nghị quyết 15 của Bộ Chính trị, Nghị quyết của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về phát hành công trái xây dựng Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội đã vận động cán bộ, đảng viên và nhân dân Thị xã tích cực tham gia mua công trái, thể hiện rõ trách nhiệm và nghĩa vụ đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hưởng ứng lời kêu gọi của Mặt trận Tổ quốc tỉnh, trải qua 3 đợt mua công trái (đợt 1 từ tháng 12/1983 đến tháng 5/1985; đợt 2 từ 30/6/1984 đến 15/1/1985; đợt 3 từ 25/8/1985 đến tháng 9/1985), Thị xã đạt và vượt chỉ tiêu trên giao.
Qua các phong trào, tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với quần chúng, giúp các cấp ủy Đảng cơ sở tháo gỡ những khó khăn ở từng đơn vị, địa phương.
Giữ vững vai trò hạt nhân lãnh đạo trong hệ thống chính trị, trong bối cảnh tình hình trong nước còn nhiều khó khăn, Thị ủy đã chú trọng công tác xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IX và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thị xã lần thứ XII, Đảng bộ Thị xã quan tâm công tác tư tưởng chính trị, giúp cán bộ, đảng viên vững vàng trước khó khăn, phát huy truyền thống cách mạng, tin tưởng vào đường lối của Đảng; kiên quyết trong đấu tranh chống các âm mưu, thủ đoạn của địch; phòng chống tiêu cực.
Trước những khó khăn về sản xuất và đời sống, kinh tế-xã hội dần lâm vào khủng hoảng, hiện tượng tiêu cực diễn biến phức tạp, có mặt nghiêm trọng, Đảng bộ Thị xã đã quán triệt và thực hiện tốt Nghị quyết số 15/NQ-TU, ngày 29-6-1981 của Tỉnh ủy về “Tình hình và nhiệm vụ công tác tư tưởng, công tác tổ chức”, với mục tiêu tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về tình hình kinh tế, tạo điều kiện thực hiện thắng lợi kế hoạch 5 năm lần thứ 3, trước mắt là đẩy mạnh sản xuất , ổn định đời sống nhân dân.
Đảng bộ luôn quan tâm xây dựng khối đoàn kết nhất trí trong Đảng và quần chúng, tinh thần làm chủ tập thể của nhân dân; tính tiền phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên; tinh thần cảnh giác cách mạng, chống biểu hiện dao động, bi quan, hoài nghi, tự do vô kỷ luật, chia rẽ, bè phái, tham ô, hối lộ, ức hiếp quần chúng; khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, xa rời thực tế. Trong công tác tổ chức-cán bộ, quan tâm củng cố tổ chức cơ sở đảng; chú ý xây dựng quy chế và lề lối làm việc theo nguyên tắc “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân lao động làm chủ”, bố trí cán bộ hợp lý hơn; kiện toàn một bước các ban tham mưu của cấp ủy, chính quyền; tiếp tục hoàn chỉnh quy hoạch cán bộ; quan tâm công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,...
Công tác củng cố tổ chức cơ sở đảng được quan tâm. Đến năm 1982, 100% phường, xã, hợp tác xã, Trường cấp III xây dựng được Đảng bộ, chi bộ.
Nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, Thị ủy quan tâm công tác giáo dục lý luận chính trị. Trường Đảng Thị xã tăng cường bồi dưỡng cán bộ, đảng viên theo chương trình trung cấp, sơ cấp. Chất lượng cán bộ cấp ủy được nâng lên: Cán bộ các ban của Thị ủy đến năm 1982 có 55,8% trình độ văn hóa cấp III; trung học chuyên nghiệp 21,4%; đại học 26,8%; trung cao cấp lý luận đạt 55,2%. Ở cấp phường, xã, trình độ văn hóa cấp II đạt 80%, trung cấp đạt 9%; trung, sơ cấp lý luận đạt 62,5%.
Trong 3 năm 1983-1985, toàn Đảng bộ tiến hành hai đợt tự phê bình và phê bình theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa VI) và Chỉ thị 17-CT/TU của Tỉnh ủy. Đồng thời, mở lớp bồi dưỡng đảng viên mới, lý luận sơ cấp cho 828 đảng viên, lý luận trung cấp cho 177 đảng viên; cử đi học các lớp đào tạo, bồi dưỡng khác nhau ở trường Tỉnh và Trung ương 9 đảng viên.
Công tác phát triển Đảng ở các Đảng bộ và chi bộ cơ sở được quan tâm. Trong ba năm 1983-1985, ở 101 cơ sở Đảng đã bồi dưỡng, kết nạp 677 đảng viên mới.
Công tác kiểm tra, kỷ luật đảng được thực hiện nghiêm túc, đúng Điều lệ. Qua công tác kiểm tra, kỷ luật đảng, Đảng bộ đã thi hành kỷ luật 595 cán bộ, đảng viên với các hình thức kỷ luật khác nhau, trong đó đưa 253 người không đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng.
Công tác cán bộ được xác định là một khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XII, từ năm 1984, các cấp ủy bước đầu đổi mới một số khâu: tăng cường, bố trí sắp xếp cán bộ, trên cơ sở đúng việc, đúng người, nhất là trong đội ngũ cán bộ chủ chốt của bộ máy chính quyền. Thị ủy và cấp ủy cơ sở chú ý bồi dưỡng đội ngũ cán bộ kế cận, trong đó coi trọng việc đào tạo, bồi dưỡng có hệ thống qua trường, lớp khác nhau ở Tỉnh và Trung ương. Đồng thời, phát huy chức năng tham mưu của các ban, ngành; củng cố một bước trường Đảng Thị xã.
Qua phân loại từng năm và nhiệm kỳ XII, có 98,5% đảng viên đủ tư cách, trong đó tỷ lệ đảng viên xuất sắc chiếm 24,7%. Tỷ lệ Đảng bộ trong sạch vững mạnh tăng từ 11,6% năm 1982 lên 12,7% năm 1985.
Tháng 8-1985, Đảng và Nhà nước chủ trương tổng điều chỉnh giá - lương - tiền, sau đó tiến hành đổi tiền (9-1985). Cuộc tổng điều chỉnh giá-lương-tiền không đạt kết quả như mong muốn, làm gay gắt thêm tình hình kinh tế-xã hội, tác động tiêu cực tới đời sống nhân dân. Nạn lạm phát đã làm giá cả tăng vọt, chênh lệch cung và cầu quá lớn. Đời sống cán bộ, công nhân viên chức và nhân dân hết sức khó khăn.
Trước tình hình đó, thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy và của Trung ương, Thị ủy, Ủy ban nhân dân Thị xã đã lập phương án tổ chức sắp xếp lại thị trường nhằm mở rộng thị trường có tổ chức, thu hẹp thị trường tự do, đẩy mạnh công tác lãnh đạo, chỉ đạo quản lý thị trường để ổn định giá cả trên địa bàn; trực tiếp chỉ đạo kịp thời uốn nắn các lệch lạc xảy ra.
Sản xuất trì trệ, khủng hoảng kinh tế-xã hội gia tăng đã đặt ra những yêu cầu bức thiết về việc phải dứt khoát xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp[8]. Vấn đề đổi mới để thoát khỏi khủng hoảng, khó khăn trở thành một đòi hỏi tất yếu của cách mạng nước ta, của toàn Đảng, toàn dân, trong đó có các Đảng bộ địa phương.
*
* *
Với Đảng bộ và nhân dân Thị xã, trong suốt chặng đường 10 năm cùng cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội (1975-1985), mặc dù gặp những khó khăn hết sức gay gắt, Đảng bộ và nhân dân Thị xã đã có nhiều cố gắng phấn đấu vượt qua gian khổ, khó khăn, đạt những thành tích đáng khích lệ. Việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, nhất là về kinh tế, văn hóa, xã hội của Thị xã có bước tiến bộ. Công nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp nói chung được giữ vững và có bước phát triển. Nông nghiệp tăng cả năng suất và sản lượng lương thực. Nghĩa vụ đối với Nhà nước về nhiều mặt đều hoàn thành. Văn hóa - xã hội có tiến bộ. An ninh - quốc phòng được bảo đảm. Các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể được củng cố.
Như "Lửa thử vàng, gian nan thử sức”, thành tích mà Đảng bộ và nhân dân Thị xã đạt được trong hoàn cảnh vô vàn khó khăn, càng có ý nghĩa hết sức quan trọng củng cố niềm tin, triển vọng đi lên trong gian khó. Mặc dù còn không ít hạn chế, khiếm khuyết, khó khăn, thử thách, nhưng những thành tựu đạt được về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng-an ninh trong thời kỳ 1975-1985 đã giúp Đảng bộ tích lũy thêm được nhiều kinh nghiệm quý, đặc biệt trong lãnh đạo, chỉ đạo lĩnh vực kinh tế-xã hội. Đội ngũ cán bộ, đảng viên được rèn luyện và trưởng thành một bước qua thực tiễn công tác. Đó là những tiền đề, điều kiện rất quan trọng để Đảng bộ Thị xã lãnh đạo các tầng lớp nhân dân bước vào thực hiện đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo.
[1] Đến đầu năm 1981 Thị xã Thanh Hóa có diện tích tự nhiên là 3.677 ha, đất nông nghiệp 1.646 ha, sức kéo 1,7ha/con/vụ.
[2].Quyết định số 551-TC/UBTH ngày 3-7-1981.
[3] Báo cáo của Ban Chấp hành Đảng bộ Thị xã Thanh Hóa tại Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ XII.
[4] Nghị quyết số 01 NQ/TU ngày 5-1-1984 lưu tại Văn phòng Tỉnh ủy.
[5] Báo cáo sơ kết thi hành Chỉ thị 100 CT/TW Ban Bí thư Trung ương Đảng - Chỉ thị 01 CT/TU (10/1981-5/1984)
[6] Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ Thị xã tại Đại hội đại biểu Đảng bộ khóa XIII.
[7] Chế độ trách nhiệm; chế độ kỷ luật lao động, chấp hành nghị quyết, chính sách; chế độ tiết kiệm, bảo vệ của công; chế độ phục vụ nhân dân.
[8] Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Đảng khóa V.
Tin cùng chuyên mục
-
CHƯƠNG X: THÀNH PHỐ THANH HÓA HỘI NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN
10/01/2021 16:15:39 -
LỜI GIỚI THIỆU
07/11/2014 16:15:47 -
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ VỊ TRÍ ĐỊA LÝ, ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, XÃ HỘI VÀ TRUYỀN THỐNG LỊCH SỬ
05/11/2014 16:15:41 -
CHƯƠNG II:TỪ PHONG TRÀO YÊU NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG CỦA NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐẾN TỔNG KHỞI NGHĨA THÁNG TÁM NĂM 1945
04/11/2014 16:12:12
CHƯƠNG VI: CÙNG CẢ NƯỚC TẬP TRUNG XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA (1975 - 1985)
Đăng lúc: 25/10/2014 15:56:14 (GMT+7)
Lịch sử Đảng bộ Thành phố Thanh Hóa 1945-2020 (Tiếp theo)
I. TIẾP TỤC KHÔI PHỤC PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI, CHĂM LO ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN, GÓP PHẦN BẢO VỆ TỔ QUỐC (1975-1980)
(Post by: Trần Chiến; Nguồn sách Lịch sử Đảng bộ Thành phố Thanh Hóa 1945-2010 do Thành ủy TP Thanh Hóa biên soạn và xuất bản 5/2014)
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX. Đảng bộ và nhân dân Thị xã cùng Đảng bộ và nhân dân tỉnh Thanh Hóa và toàn thể dân tộc Việt Nam bước vào thời kỳ lịch sử mới với niềm tự hào, tinh thần lạc quan cách mạng của người chiến thắng, với quyết tâm thực hiện thắng lợi Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh “xây dựng nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.
Ngay sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, từ ngày 19 đến 28-5-1975, Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa tổ chức Đại hội đại biểu lần thứ VIII. Đại hội đề ra nhiệm vụ của Tỉnh trong hai năm 1975 - 1976 và những năm tiếp theo là: "Phát huy mọi khả năng của cả 4 vùng: Đồng bằng, trung du, miền biển, miền núi, đi sâu vào tổ chức lại sản xuất, cải tiến một bước công tác quản lý từ cơ sở, tích cực xây dựng các điều kiện vật chất cấp thiết, đưa tốc độ khôi phục và phát triển sản xuất nhanh hơn, có hiệu quả kinh tế cao hơn; giải quyết vững chắc vấn đề lương thực, tăng nhanh thực phẩm và hàng tiêu dùng, tăng nhanh hàng xuất khẩu, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, cải thiện một bước đời sống nhân dân trong tỉnh. Đồng thời, tích cực chuẩn bị cho việc phát triển kinh tế mạnh mẽ trong kế hoạch dài hạn (1976-1980)".
Bước vào thời kỳ mới, nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ quê hương của Đảng bộ và nhân dân Thị xã có nhiều thử thách, khó khăn, nhưng cũng có những thuận lợi cơ bản.
Những khó khăn nổi lên đó là hậu quả chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ còn nặng nề. Chuyển từ thời chiến sang thời bình, cơ chế quản lý hành chính, quan liêu bao cấp không còn phù hợp. Đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt, cán bộ quản lý từ thành thị tới cơ sở còn mỏng và thiếu kinh nghiệm, năng lực tổ chức, quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Đời sống nhân dân tuy được cải thiện, nhưng cũng còn nhiều khó khăn.
Tuy nhiên, không khí phấn khởi của toàn dân sau thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã tạo động lực mạnh mẽ để Đảng bộ và nhân dân Thị xã tin tưởng vào thắng lợi của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Lòng yêu quê hương, đất nước của nhân dân là cơ sở vững chắc cho việc huy động lực lượng trên mặt trận phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng-an ninh. Đảng bộ đã tích lũy được những bài học kinh nghiệm quý trong lãnh đạo, chỉ đạo trên các lĩnh vực.
Với ý chí "Tất cả cho sản xuất, tất cả để xây dựng chủ nghĩa xã hội”, “Tất cả vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân", toàn Đảng bộ và quân dân Thị xã quyết tâm vượt qua thử thách, tạo nên những phong trào thi đua sôi nổi của quần chúng nhằm phát triển kinh tế, phát triển sự nghiệp giáo dục, văn hóa, y tế, khoa học kỹ thuật, tăng cường công tác quân sự địa phương và trị an xã hội, tiếp tục củng cố hệ thống chính trị, chú trọng công tác xây dựng Đảng, cùng nhân dân trong tỉnh vững vàng bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976 - 1980).
Trong thời kỳ mới, Đảng bộ và nhân dân Thị xã xác định rõ phải tập trung mọi khả năng, sức lực của các ngành, các cấp đẩy mạnh phát triển kinh tế, nhằm sử dụng hết khả năng lao động, phấn đấu hoàn thành vượt mức kế hoạch Nhà nước, thúc đẩy mọi mặt công tác văn hóa - xã hội tiến mạnh mẽ, vững.
Tăng cường công tác quản lý kinh tế, văn hóa, quản lý đô thị, phục vụ đắc lực yêu cầu phát triển kinh tế, văn hóa, nhằm củng cố và hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong cả hai khu vực quốc doanh và tập thể, tổ chức xây dựng cuộc sống mới tươi vui, lành mạnh.
Nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, tăng cường công tác quân sự địa phương, công tác bảo vệ trật tự trị an xã hội, sẵn sàng đối phó với mọi tình huống, ngăn ngừa và đánh bại mọi hành động chiến tranh tâm lý, gián điệp và mọi hoạt động phá hoại của địch, đáp ứng đầy đủ nhất các yêu cầu chi viện sức người và sức của cho cách mạng miền Nam...
Để thực hiện tốt phương hướng, nhiệm vụ trên, trong công tác lãnh đạo, Đảng bộ tập trung vào các nội dung chủ yếu:
- Phát động quần chúng thi đua lao động sản xuất và thực hành tiết kiệm; tăng cường công tác quản lý, củng cố và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
- Kiên quyết đấu tranh xóa bỏ các tệ nạn xã hội và những tư tưởng hành động tiêu cực trong tổ chức sản xuất, tổ chức quản lý, tổ chức đời sống xã hội.
- Tăng cường công tác xây dựng Đảng, chú trọng các mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và kiểm tra.
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ VIII, tháng 10-1975 Đảng bộ Thị xã nhấn mạnh: "Phải tập trung cao độ, nêu cao tinh thần chủ động, tự lực, tự cường, đoàn kết tương trợ nhằm nhanh chóng khắc phục hậu quả bão lụt, quyết tâm phấn đấu hoàn thành toàn diện các chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước năm 1975, đồng thời phải tích cực chuẩn bị tư tưởng, tổ chức, phương án cụ thể về nguyên liệu, cơ sở vật chất kỹ thuật cho năm 1976 với tinh thần quyết giành thắng lợi ngay từ tháng đầu, quý đầu của năm 1976 tạo tiền đề cho việc thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976-1980).
Ngày 26-1-1976, Thị ủy ra Nghị quyết số 01-VP/TU về phương hướng, nhiệm vụ năm 1976, trong đó nêu rõ phương hướng, nhiệm vụ cụ thể là: "Ra sức phát huy thế mạnh, kiên quyết khắc phục nhược điểm, tồn tại, tập trung đẩy mạnh việc tổ chức lại sản xuất, tổ chức lại lao động xã hội, chấn chỉnh các mặt quản lý, trọng tâm là cơ sở sản xuất kinh tế nhằm đẩy mạnh kinh tế, văn hóa phát triển, hoàn thành toàn diện kế hoạch Nhà nước năm 1976, giải quyết tốt đời sống và đưa việc tổ chức quản lý Thị xã có chuyển biến tiến bộ về nếp sống mới”; khẩu hiệu hành động năm 1976 của Đảng bộ và nhân dân Thị xã là phấn đấu xây dựng "Thị xã giàu về kinh tế, giỏi về trật tự, đẹp về nếp sống".
Xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ, thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 03 của Tỉnh ủy về nhiệm vụ, chủ trương, biện pháp công tác cán bộ trong giai đoạn mới, ngày 7-7-1976 Thị ủy đã ra Nghị quyết số 05-NQ/TU về công tác cán bộ, coi cán bộ là khâu then chốt nhằm bảo đảm thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Nghị quyết chỉ rõ: Từ nay đến năm 1985, ngoài tiêu chuẩn phẩm chất đạo đức cách mạng cần có của mỗi cán bộ, phải đảm bảo có trình độ kiến thức các mặt của cán bộ từ Thị đến cơ sở đạt được những mục tiêu:
- Ở cấp Thị xã: Phải có trình độ văn hóa hết cấp III, về chuyên môn nghiệp vụ có trình độ đại học, về lý luận chính trị có trình độ trung cấp trở lên.
- Ở cấp cơ sở: Về văn hóa ít nhất phải hết cấp II trở lên, về chuyên môn nghiệp vụ phải có trình độ trung học, về lý luận chính trị phải có trình độ sơ cấp trở lên...
Trong công tác tổ chức-cán bộ, từng bước kiện toàn tổ chức bộ máy, sắp xếp, bố trí đổi mới từng bộ phận đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý. Đảm bảo tất cả cán bộ ở các cấp có đội ngũ cán bộ cốt cán đồng bộ, sức chiến đấu cao, năng lực tốt, khẩn trương tăng cường tổ chức bộ máy, tổ chức cán bộ ở Thị xã và các ngành quản lý kinh tế, văn hóa - xã hội và ở cơ sở sản xuất kinh doanh, nhất là cơ sở sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp....
Tiếp tục coi trọng công tác xây dựng Đảng, Thị ủy chủ trương nhanh chóng đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao sức chiến đấu cho đội ngũ cán bộ, đảng viên bằng nhiều hình thức:
- Mở lớp tập trung và tại chức cho đội ngũ cán bộ cơ sở.
- Lựa chọn và cử đi học các lớp bồi dưỡng, đào tạo do các trường Đảng chiêu sinh đối với cán bộ chủ chốt và kế cận.
- Tập trung kiện toàn củng cố các đảng bộ, chi bộ yếu kém, đấu tranh làm rõ đúng sai đối với cán bộ có sai lầm khuyết điểm.
- Đối với đảng viên trung bình, yếu kém, phải tích cực giáo dục; cùng cơ sở xác minh phân loại đảng viên loại 3. Đồng thời, giúp đỡ, tạo mọi điều kiện để chuyển hóa đảng viên trung bình lên đảng viên tích cực, v.v...
Trên mặt trận sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, khắc phục khó khăn về nguyên vật liệu, thiết bị, vật tư, phương tiện, cán bộ kỹ thuật... trong lãnh đạo, Ban Chấp hành Đảng bộ tập trung vào hai mũi nhọn là xuất khẩu và xây dựng.
Cán bộ, công nhân viên, xã viên ở các xí nghiệp, hợp tác xã đã nêu cao tinh thần làm chủ tập thể, có nhiều sáng kiến trong lao động sản xuất; hiệu quả sản xuất kinh doanh có chuyển biến tích cực, đã có 28/34 hợp tác xã sản xuất tiểu thủ công nghiệp đạt và hoàn thành vượt mức kế hoạch từ 100-139%. Điển hình là các hợp tác xã: Thành Công, Chiến Thắng, Phương Nam, Đoan Hùng, Thanh Xuân, Hợp Tiến... Đã có 25/26 xí nghiệp hoàn thành kế hoạch từ 100%-124% như: Xí nghiệp Dược phẩm, Nhà máy in Ba Đình, Xí nghiệp Bánh kẹo, Vận tải, Lương thực v.v...
Năm 1976, thành lập thêm hợp tác xã Nhựa và sắp xếp lao động ngoài xã hội vào các hợp tác xã, các tổ ngành nghề phục vụ gồm 1.929 người. Phát triển nhiều mặt hàng mới như phụ tùng xe đạp, máy cán cói, máy dập ngói cải tiến, cột buồm sông biển... Đó là những tiền đề quan trọng để ngành công nghiệp và thủ công nghiệp Thị xã vươn lên vào những năm sau.
Về sản xuất nông nghiệp, thực hiện chủ trương tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, Thị xã đã sát nhập các hợp tác xã nhỏ lên quy mô toàn xã, như các hợp tác xã: Đông Thọ, Đông Vệ, Đông Hải, Đông Hương, Quảng Thắng; 3 hợp tác xã quy mô tiểu khu hành chính: Phú Sơn, Nam Ngạn, Đông Sơn... đã khảo sát được đất đai, lên quy hoạch tổ chức lao động đồng ruộng, phân công lại lao động theo các đội chuyên để đi vào thâm canh, chuyên canh. Qua hai vụ đầu tiến hành sản xuất theo quy mô mới, cuối năm 1976, diện tích vụ chiêm và vụ mùa đều vượt hơn so với năm 1975; tổng sản lượng 2 vụ đạt 5.437 tấn, tăng 3,4 tạ/ha so với năm 1975. Sản lượng rau đạt 1.220 tấn, nhập cho Nhà nước 213 tấn, so với năm 1975 tăng gấp 2 lần. Chăn nuôi có chuyển biến rõ rệt, giao nộp nghĩa vụ cho Nhà nước được 80 tấn thịt lợn, 15 tấn gà, vịt, cá.
Gắn liền với việc thực hiện tổ chức lại sản xuất, Thị ủy đã chỉ đạo triển khai việc thực hiện chống tiêu cực đến đội ngũ cán bộ, xã viên các hợp tác xã nông nghiệp, các ngành sản xuất và dịch vụ. Thông qua cuộc vận động này, quần chúng được giáo dục nâng cao ý thức về vai trò làm chủ tập thể của người lao động, đấu tranh bài trừ và ngăn chặn tệ nạn xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, chống tham ô, lãng phí. Cuộc vận động này có tác dụng bảo vệ và rèn luyện đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác lãnh đạo và quản lý ở cơ sở, nhất là các cơ sở kinh tế.
Ngày 10-2-1976, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân Tỉnh tổ chức khởi công xây dựng công trình tiêu thủy Đông - Thiệu - Thị (lấy tên là công trình Thống Nhất, công trình cống Quảng Châu). Ủy ban nhân dân Thị xã tiếp tục triển khai làm hệ thống tưới tiêu Chi Giang 23. Trên các công trình này, "Thị xã huy động hơn 10 ngàn lao động với gần 300 ngàn ngày công tham gia đào đắp 300.000m3 đất đá. Trên mặt trận sản xuất nông nghiệp, Thị ủy đã chỉ đạo việc huy động và tổ chức lực lượng tham gia xây dựng công trình tiêu thủy Đông Sơn-Thiệu Hóa-Thị xã Thanh Hóa, còn gọi là “công trình thống nhất Quảng Châu”, với ý nghĩa chào mừng mùa Xuân lịch sử nước nhà thống nhất. Công trình được khởi công xây dựng ngày 5-3-1976. Đây là một công trình thủy lợi lớn, đòi hỏi kỹ thuật cao. Phần đào đắp kênh tiêu có khối lượng hàng chục triệu mét khối đất đá, có những đoạn kênh dài gần 20 km với mặt cắt ngang rộng 20-30 mét, hàng chục km kênh cấp 1 và cấp 2. Đến ngày 27-8-1976, công trình hoàn thành và đưa vào sử dụng, góp phần quan trọng vào việc bảo đảm nguồn nước tưới, tiêu chống úng, chống hạn trên địa bàn Thị xã và các huyện Đông Sơn, Thiệu Hóa. Riêng công trình sông Lý, toàn Thị xã đã huy động 3.100 lao động, với chỉ tiêu đạt 90.000 ngày công, hoàn thành trước thời gian quy định 8 ngày. Thị xã là đơn vị luôn luôn dẫn đầu cấp huyện về thời gian, năng suất và chất lượng công việc được giao, được tỉnh tặng cờ thi đua đơn vị khá nhất.
Về xây dựng cơ bản, đã tập trung xây dựng một số công trình quan trọng phục vụ phát triển kinh tế, văn hóa và đời sống nhân dân. Đáng chú ý, Đội Công trình Thị xã được Đảng bộ, chính quyền Thị xã giao nhiệm vụ xây dựng công trình chợ Vườn Hoa đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, bảo đảm đúng thời gian, đưa công trình vào sử dụng ngày 15-12-1976 như Nghị quyết Ban Chấp hành Đảng bộ Thị xã đề ra.
Theo chức năng của từng tổ chức chính trị - xã hội, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng đã tổ chức nhiều phong trào thi đua phục vụ nhiệm vụ chính trị của Thị xã.
Thực hiện Nghị quyết của Trung ương Đoàn về phát động phong trào “Thanh niên tình nguyện xây dựng đất nước” (5-1975), dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Thị ủy và của Tỉnh đoàn Thanh Hóa, Đoàn Thanh niên Thị xã đã thành lập các đội “Thanh niên tình nguyện xây dựng đất nước”, cùng cán bộ, đảng viên và nhân dân Thị xã khôi phục, phát triển kinh tế, văn hóa, giao thông, thủy lợi; san lấp hố bom, vận chuyển phương tiện, máy móc, ổn định sản xuất. Các hình thức hoạt động như: “Đội kiểm tra thanh niên”, “Ca máy thanh niên” đã góp phần thiết thực đưa năng suất lao động lên cao, bảo đảm duy trì tốt kỷ luật lao động.
Từ năm 1976, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VIII và Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đoàn lần thứ 21 (12-1975), Đoàn thanh niên Thị xã Thanh Hóa đã có nhiều chủ trương, giải pháp thích hợp tổ chức động viên tuổi trẻ tích cực, chủ động thực hiện 4 phong trào thi đua lớn: Phong trào thi đua lao động tình nguyện xây dựng đất nước; Phong trào thi đua quyết thắng trong các lực lượng vũ trang; Phong trào thi đua học tập trong các tầng lớp nhân dân; Phong trào thi đua rèn luyện thân thể và thực hiện nếp sống mới. Đoàn Thanh niên đã chú trọng giáo dục, tổ chức phong trào tình nguyện vượt mức kế hoạch, động viên đông đảo đoàn viên đi đầu trong sản xuất, đảm nhận những công trình, những việc khó nhất như công trình thanh niên xây dựng chợ Vườn Hoa của Chi đoàn hợp tác xã Chiến Thắng; Chi đoàn Xí nghiệp in Ba Đình mỗi số báo in nhanh hơn 2 giờ v.v.. Qua phong trào, được sự lãnh đạo của các cấp ủy, Đoàn Thanh niên Thị xã mở được 12 lớp đối tượng cho 437 thanh niên, kết nạp được 92 đoàn viên.
Hội Phụ nữ vận động 1.094 chị em đăng ký xây dựng gia đình văn hóa. Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh phong trào "Ba đảm đang", với nội dung hoạt động phù hợp yêu cầu mới của cách mạng.
Tổ chức Công đoàn ở các trường học, xí nghiệp, cơ quan Nhà nước được sắp xếp lại. Nhiều đơn vị công đoàn đã thực hiện các biện pháp phát huy quyền làm chủ của công nhân viên trong việc tham gia quản lý cơ quan, giải quyết những khó khăn về đời sống cho công nhân, viên chức và người lao động.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ VIII và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thị xã lần thứ IX về công tác xây dựng Đảng, Thị ủy đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, đảng viên; củng cố tổ chức cơ sở đảng; làm tốt công tác phát triển đảng, nâng cao chất lượng đảng viên; thực hiện có kết quả công tác đào tạo, bồi dưỡng và quản lý cán bộ. Tăng cường xây dựng cấp huyện. Cải tiến phương pháp làm việc của cấp ủy...
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, Đảng bộ cũng nhận thấy "Sự chuyển biến cách mạng trong Đảng bộ, năng lực lãnh đạo của đảng viên, của cấp ủy và các tổ chức chưa đáp ứng yêu cầu chuyển biến giai đoạn. Khâu yếu nhất đang hạn chế sức chiến đấu và năng lực công tác của cán bộ, đảng viên là sự giác ngộ về Đảng, về cách mạng xã hội chủ nghĩa còn thấp, thể hiện tinh thần cách mạng tiến công, ý thức làm chủ tập thể còn yếu, trình độ văn hóa, sự hiểu biết khoa học kỹ thuật, năng lực quản lý kinh tế, tổ chức xã hội mới cho cán bộ, đảng viên tiến bộ chậm. Công tác tư tưởng chưa thật sự gắn với cuộc chiến đấu mới để rèn luyện cán bộ, đảng viên... Vấn đề lớn nhất đấu tranh giữa hai con đường "ai thắng ai" thực chất là đấu tranh từ sản xuất nhỏ đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, trung tâm cách mạng xã hội chủ nghĩa, chưa giải quyết tốt ...".
Từ ngày 5 đến ngày 11- 5-1977 Đảng bộ Tỉnh Thanh Hóa tiến hành Đại hội đại biểu lần thứ IX (vòng 2). Đại hội đã xác định phương hướng, nhiệm vụ 2 năm 1977-1978: Quán triệt sâu sắc, chấp hành nghiêm chỉnh và vận dụng sáng tạo đường lối, nhiệm vụ của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, nêu cao tinh thần cách mạng tiến công và ý thức tự lực, tự cường, khắc phục mọi khó khăn, tiếp tục tổ chức lại nền kinh tế từng vùng, từng ngành, từ cơ sở đến tỉnh, đẩy nhanh tốc độ xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, cải tiến quản lý, thực hành tiết kiệm, nhằm tổ chức, sử dụng và phát huy mọi khả năng đất đai, tài nguyên, thiết bị và lao động của cả 4 vùng, mở rộng và đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, nghề rừng, nghề biển, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, lấy nông nghiệp làm trọng tâm, hoàn thành mục tiêu kế hoạch hai năm 1977-1978, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp công nghiệp hóa, cải thiện một bước đời sống nhân dân trong tỉnh. Phát triển sự nghiệp văn hóa - xã hội, tăng cường củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Làm tốt nghĩa vụ quốc tế với tỉnh Hủa Phăn.
Đại hội đại biểu Đảng bộ Thị xã lần thứ X (vòng 2) diễn ra từ ngày 28 đến ngày 30-6-1977 tại Hội trường Thị ủy. Dự Đại hội có 200 đại biểu, thay mặt cho 4.613 đảng viên trong toàn Đảng bộ.
Đại hội khẳng định thành tựu trong việc lãnh đạo phong trào cách mạng của Thị xã nhiệm kỳ 1975-1977, đồng thời chỉ rõ những mặt yếu kém cần được khắc phục. Báo cáo chính trị tại Đại hội đã chỉ rõ: do chủ quan và sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng còn nhiều thiếu sót, chưa nhận thức đúng đắn vị trí công tác xây dựng Đảng, chưa quán triệt đúng đường lối, phương châm, nguyên tắc và chính sách về công tác cán bộ, khâu mấu chốt nhưng yếu nhất hiện nay là tư tưởng và tổ chức cơ sở yếu kém, nhất là đội ngũ cán bộ.
Đại hội xác định phương hướng, nhiệm vụ của Thị xã trong 2 năm (1977-1978) là: "Sử dụng hết khả năng lao động và thiết bị hiện có, tăng thêm thiết bị cho một số ngành kinh tế trọng điểm, tăng cường công tác tổ chức lại sản xuất, cải tiến một bước quản lý kinh tế theo tinh thần Nghị quyết 19, 61, 134/CP của Hội đồng Chính phủ. Đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng cung cấp phần lớn cho nhu cầu nhân dân trong tỉnh. Tăng nhanh tốc độ sản xuất hàng xuất khẩu, sản xuất nhiều sản phẩm "rau, thịt", giải quyết vững chắc lương thực, đóng góp đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước, cải thiện từng bước đời sống nhân dân Thị xã, đồng thời tăng cường công tác quân sự địa phương, công tác trật tự, vệ sinh từng bước xây dựng Thị xã thành địa bàn công - nông nghiệp liên hiệp".
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 23 đồng chí (2 ủy viên dự khuyết). Ban Chấp hành Đảng bộ khóa X đã bầu Ban Thường vụ gồm 7 đồng chí; đồng chí Lê Xuân Sang được bầu làm Bí thư; đồng chí Thiều Quang Mộc làm Phó Bí thư (phụ trách chính quyền).
Năm 1977 là năm đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IV, năm thứ 2 thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ hai (1976-1980). Ban Thường vụ Thị ủy ra Nghị quyết về "Cuộc vận động toàn dân thi đua lao động sản xuất, cần kiệm xây dựng Thị xã, kết hợp quản lý thị trường và tổ chức trật tự an toàn Thị xã". Về các nhiệm vụ cụ thể, Nghị quyết nhấn mạnh: "Tổ chức quản lý, sắp xếp lao động và phân bố lao động xã hội, giải quyết công việc làm cho mọi người lao động trong Thị xã. Trên cơ sở đó phát động thành phong trào cách mạng trong lao động sản xuất ở từng xí nghiệp, hợp tác xã, cơ quan... tham gia lao động xây dựng Thị xã. Các cơ quan Nhà nước và các hợp tác xã quản lý chặt chẽ vật tư hàng hóa, phương tiện lao động, chỉ tiêu lao động ngày, giờ công, định mức lao động khoán sản phẩm. Tăng cường quản lý thị trường tự do, quản lý chặt chẽ và ngăn chặn những người buôn bán trái phép hàng công nghệ phẩm, đầu cơ lương thực, nấu rượu lậu”...
Thực hiện chủ trương của Thị ủy, các cấp ủy kịp thời chỉ đạo đẩy mạnh phong trào thi đua lao động sản xuất.
Bước vào thời kỳ mới, ngành tiểu, thủ công nghiệp gặp không ít hạn chế, khó khăn, như: tâm lý sản xuất nhỏ còn nặng nề, ngại khó, phương tiện sản xuất thiếu thốn, đặc biệt sự khó khăn về điện đã làm cho tốc độ sản xuất tiểu thủ công phát triển chậm, chất lượng sản phẩm thấp…
Để sớm khắc phục những khó khăn, trở ngại, thực hiện các Nghị quyết số 19, 61, 134/CP của Hội đồng Chính phủ về tổ chức lại sản xuất, tăng cường quản lý, toàn ngành đã vừa đào tạo thêm thợ mới, bồi dưỡng tay nghề cho thợ cũ, mở rộng xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, vừa đẩy mạnh cải tiến quản lý đi đôi với khuyến khích lợi ích vật chất, mở rộng diện khoán lương theo sản phẩm để đẩy mạnh sản xuất.
Trong những năm 1976-1977, Thị ủy Thanh Hóa chủ trương tổ chức lại sản xuất, tạo việc làm cho xã viên nhằm tăng thu nhập ổn định đời sống nhân dân; tăng cường quản lý, sắp xếp lại phân xưởng, định mức lao động, và định mức tiêu hao vật tư thấp nhất, khoán lương theo sản phẩm,... Mở rộng quy mô sản xuất của một số hợp tác xã với việc sáp nhập hai hợp tác xã thủy tinh Sơn Hà và Thống Nhất; sáp nhập ba hợp tác xã thêu Hồng Kỳ, Thanh Xuân và Liên hiệp nhựa; sáp nhập hợp tác xã Hợp Nhất chế biến (bún, bánh) với hợp tác xã Thắng Lợi sản xuất hàng sơn mài xuất khẩu. Toàn ngành Tiểu thủ công nghiệp đã tiếp nhận 2.394 lao động, trong đó có 920 người làm nghề thêu, vẽ tranh sơn mài, mành trúc xuất khẩu, đầu tư hơn hai triệu đồng mua sắm thiết bị, máy móc...
Trong năm 1977, ngành công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp đã được tăng cường thêm máy móc, nhà xưởng. Tổ chức lại lực lượng lao động sản xuất, sắp xếp 465 lao động ngoài xã hội vào các cơ sở sản xuất của hợp tác xã. Với sự quan tâm của các cấp, các ngành, năm 1977, ngành Tiểu thủ công nghiệp Thị xã đã hoàn thành vượt mức kế hoạch 12 loại sản phẩm chủ yếu và phát triển thêm 18 mặt hàng mới. Đã có 24/34 hợp tác xã và 30/33 xí nghiệp quốc doanh trên địa bàn hoàn thành kế hoạch Nhà nước. Tổng giá trị sản lượng của ngành năm 1976 đạt 23 triệu đồng, năm 1977 đạt 27 triệu đồng. Trong hai năm 1977-1978, giá trị sản xuất của ngành đạt 56,2 triệu đồng, bằng 102% kế hoạch và tăng hơn 31% so với năm 1976. Do năng suất lao động tăng lên và tiết kiệm nguyên liệu, vật tư… từ nhiều nguồn, các hợp tác xã thủ công nghiệp đã hạ giá thành một số mặt hàng tạo điều kiện giảm giá bán buôn, đời sống xã viên có những chuyển biến bước đầu.
Phong trào thi đua xây dựng tổ, đội lao động xã hội chủ nghĩa và phong trào thi đua đuổi kịp và vượt hợp tác xã Thủy tinh Thống Nhất, hợp tác xã Minh Thành được các ngành, các cấp triển khai thực hiện trên diện rộng.
Ngày 8-9-1977, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ra Nghị quyết về việc bồi dưỡng cán bộ hợp tác xã học tập và làm theo điển hình tiên tiến thi đua với hợp tác xã Định Công. Mục đích, nhằm nâng cao trình độ tổ chức quản lý hợp tác xã, thúc đẩy phát triển sản xuất theo gương điển hình tiên tiến, thực hiện thi đua “Định Công hóa các hợp tác xã nông nghiệp trong tỉnh”. Theo Nghị quyết của Tỉnh ủy, từ tháng 10-1977, mỗi hợp tác xã cử đoàn cán bộ khoảng 15 đồng chí, gồm: Bí thư Đảng ủy Tiểu khu, Chủ nhiệm hợp tác xã, Phó Chủ nhiệm và một số đội trưởng tham gia học tập 3 tháng tại các hợp tác xã điển hình tiên tiến như: hợp tác xã Định Công, Đông Hòa, Xuân Thành, Điền Lư.
Khối xí nghiệp quốc doanh, như Phân lân Hàm Rồng, Tàu thuyền, 19-5, Cơ khí... đã phát huy ý thức tự lực tự cường, trong hai năm 1977-1978 đều hoàn thành kế hoạch. Đời sống cán bộ, công nhân được nâng cao hơn. Trong phong trào đã xuất hiện những đơn vị đạt nhiều thành tích, tiêu biểu như: Công ty Xây dựng I và Công ty Xây dựng K2, được Chính phủ tặng thưởng Huân chương Lao động hạng ba.
Việc thực hiện cuộc vận động tổ chức lại sản xuất nông nghiệp từ cơ sở được triển khai sâu rộng tới các hợp tác xã trong toàn Thị xã. Thông qua phong trào "Định Công hóa", được sự lãnh đạo của Thường vụ Thị ủy, các cấp ủy cơ sở tập trung chỉ đạo sát sao, động viên xã viên nêu cao ý thức trách nhiệm, dám đầu tư vốn, sức lao động để tổ chức lại sản xuất, khai thác tốt tiềm năng đất đai và lao động. Hàng trăm héc ta ruộng được khai hoang phục hóa đưa vào sản xuất. Các hợp tác xã đã thực hiện đúng chính sách cho xã viên mượn đất trồng màu, phát triển kinh tế gia đình.
Các phong trào lao động sản xuất được phát động liên tục và đem lại kết quả cụ thể. Diện tích gieo trồng năm 1978 đạt 3.136 ha, tăng 3% so với năm 1977. Năm 1977-1978, tuy Thị xã bị thiệt hại do lũ lụt gây ra, nhưng sản lượng lượng lương thực vẫn đạt 10.000 tấn, tăng 7,5% so với hai năm 1975-1976.
Bên cạnh việc tăng diện tích, năng suất, sản lượng lương thực, chăn nuôi ở khu vực Thị xã có bước phát triển nhanh: năm 1978 đàn lợn có 6.314 con, tăng 1.000 con so với năm 1977, trong đó lợn lai kinh tế đạt 29% và đàn lợn tập thể tăng 20% trong tổng đàn lợn. Trại gà công nghiệp Nam Ngạn mở rộng quy mô, số lượng đàn gà lên 74.000 con; đã nhập cho Nhà nước 77.423 kg thịt. Phong trào xây dựng ao cá Bác Hồ được nhân dân các xã, hợp tác xã hưởng ứng sôi nổi.
Nhằm tạo điều kiện đẩy mạnh phong trào thâm canh lúa, mở mang phát triển chăn nuôi, đặc biệt là vấn đề thủy lợi. Thời gian này, lực lượng lao động của Thị xã đã hoàn thành đào đắp 42.000m3 đất đá trên công trình sông Hoàng, vượt trước thời gian, được Ủy ban nhân dân tỉnh tặng Cờ đơn vị khá nhất. Thị xã đã huy động 1.400 lao động đi công trường Tam Điệp, trong hai tháng hoàn thành đào đắp 55.934m3 đất đá. Các hợp tác xã huy động được 3.295 ngày công hoàn chỉnh trên công trường Chi giang 25.
Sau chiến tranh, các cơ quan Nhà nước, nhà máy, xí nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh và nhân dân từ nơi sơ tán chuyển về Thị xã và các khu vực trung tâm, nên việc cấp nước phục vụ sản xuất và sinh hoạt trở nên cấp thiết.
Tháng 10-1976, sau khi được Chính phủ phê duyệt luận chứng kinh tế kỹ thuật đầu tư mở rộng Nhà máy nước Thanh Hóa, ngày 10 – 8 – 1977, Thị ủy, Ủy ban nhân dân Thị xã nhận nhiệm vụ trước Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh về việc đào đắp Hồ chứa nước Núi Long, có dung tích 20 vạn m3 nước, nhằm nâng công suất Nhà máy nước từ 4000 m3/ngày đêm lên 20.000 m3 /ngày đêm. Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh, cùng các lực lượng thi công của Nhà nước, Ủy ban nhân dân Thị xã đã huy động đông đảo cán bộ, công nhân, viên chức và nhân dân trong việc đào đắp công trình. Bởi vậy, chỉ trong 60 ngày thi công (từ 20-10 đến 20-12-1977), nhân dân Thị xã đã đóng góp 143.687 ngày công, đào đắp 80.607 m3 đất đá xây dựng Hồ chứa nước Núi Long, hoàn thành nhiệm vụ tỉnh giao (Sau 8 năm thi công 1976-1984, Dự án mở rộng Nhà máy nước Thanh Hóa cơ bản hoàn thành và chính thức cấp nước với công suất 20.000 m3 /ngày đêm, có 14 km đường ống cấp 1 và 21,5 km đường ống cấp 2).
Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy Thanh Hóa về học tập và thi đua với hợp tác xã Định Công, các hợp tác xã Phú Sơn, Nam Ngạn, Đông Hải, Quảng Thắng đã tăng diện tích gieo trồng, đảm bảo thời vụ, đẩy mạnh áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật trong sản xuất.
Đồng thời với quan tâm lãnh đạo phát triển kinh tế, Đảng bộ Thị xã coi trọng lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng, củng cố nhiều công trình văn hóa, xã hội thiết yếu. Đặc biệt, trong những năm đầu xây dựng dựng quê hương, Thị xã Thanh Hóa đã luôn tận tình giúp đỡ, động viên Thị xã Hội An kết nghĩa, nhất là trên lĩnh vực sản xuất, phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp. Hai Thị xã đã tổ chức nhiều đoàn cán bộ để trao đổi, học tập kinh nghiệm. Những năm đầu sau giải phóng, hàng chục cán bộ của Hội An được đào tạo nghề cơ khí, thủy tinh, tiếp thu khoa học kỹ thuật sản xuất ngành nghề truyền thống ở Thị xã Thanh Hóa. Thị xã Thanh Hóa đã tặng Thị xã Hội An các sản phẩm hoàn chỉnh để làm mẫu, như: xe cải tiến, máy tuốt lúa, mành trúc, chiếu cói, xe đạp, các thiết bị dụng cụ như máy cắt, máy khoan, chuốt mây,... Nhờ đó, đến năm 1977, Hội An đã xây dựng được cơ sở sản xuất mành trúc ở phường Cẩm Phô, với số lao động trực tiếp và gia công ở các hộ gia đình lên tới gần 1000 người.
Tình cảm nồng thắm, sự tương trợ, đoàn kết giúp đỡ nhau giữa hai Thị xã trong thời kỳ kháng chiến tiếp tục được phát huy trong xây dựng và phát triển kinh tế, tạo thêm nguồn động lực để Đảng bộ và nhân dân Thị xã Thanh Hóa và Thị xã Hội An tiến lên trên con đường xây dựng quê hương, đất nước “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” theo Di chúc thiêng liêng của Bác Hồ.
Đồng thời, để tiếp tục thể hiện sự đoàn kết, tương trợ, gắn bó keo sơn với Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thị xã Hội An, sau năm 1975, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thị xã Thanh Hóa đã thực hiện chủ trương tăng cường giáo viên giúp ngành giáo dục Thị xã Hội An. Đồng bào và cán bộ Thanh Hóa đã ủng hộ, gửi tặng 10.000 đầu sách cho Thư viện của Thị xã Hội An. Đó là tài sản tri thức quý báu cho buổi đầu khôi phục và phát triển Thị xã.
Rạp chiếu bóng Hội An bị máy bay Mỹ đánh hủy diệt trong chiến tranh phá hoại lần thứ hai (9-9-1972) đã được xây dựng lại quy mô hơn, hoành tráng và đẹp hơn. Tháng 12-1977, công trình được chính thức khánh thành và đưa vào sử dụng. Đồng chí Nguyễn Yên Phó Bí thư Thường trực Thị ủy, Trưởng đoàn; đồng chí Nguyễn Đức Minh Phó Bí thư, Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thị xã cùng đoàn đại biểu Thị xã Hội An kết nghĩa đã ra dự và chứng kiến sự kiện quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của Đảng bộ Thị xã. Qua đó, đã thắt chặt thêm tình đoàn kết keo sơn giữa hai Thị xã kết nghĩa.
Quán triệt Chỉ thị 214 của Ban Bí thư và chủ trương của Tỉnh ủy về mở cuộc vận động xây dựng nếp sống văn hóa mới, kể từ sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Thị ủy đã lãnh đạo ngành văn hóa đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tổ chức thực hiện cuộc vận động. Các khu phố đã động viên các gia đình đăng ký phấn đấu xây dựng “gia đình văn hóa mới”; thực hiện nếp sống mới trong lễ cưới, lễ tang, giỗ, tết... Tiểu khu Hoàng Hoa Thám trở thành một trong những đơn vị tiêu biểu của phong trào này trên phạm vi toàn tỉnh.
Thực hiện Chỉ thị số 06/CT-TU, ngày 19-8-1975 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về “Công tác giáo dục trong thời gian tới”, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Thị ủy và ngành Giáo dục tỉnh Thanh Hóa, những năm 1976-1977, ngành giáo dục Thị xã đã có nhiều biện pháp nhằm khắc phục những hạn chế về kiến thức văn hóa và hành vi đạo đức trong học sinh, theo tinh thần “dù khó khăn đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua “dạy tốt, học tốt” theo gương điển hình tiên tiến; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên; khắc phục sự mất cân đối trong các ngành học qua việc phát triển mạnh giáo dục bổ túc văn hóa; tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị giáo dục; chấn chỉnh và cải tiến công tác tổ chức, quản lý giáo dục; tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền và trách nhiệm của toàn xã hội đối với sự nghiệp giáo dục.
Thực hiện Nghị định 15/CP của Chính phủ về cải tiến tổ chức y tế địa phương và chủ trương của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh về thực hiện mục tiêu thi đua “5 dứt điểm” của Bộ Y tế, ngành y tế Thị xã đã đẩy mạnh phong trào thi đua “5 dứt điểm” trên địa bàn, tiêu biểu là phong trào thi đua dứt điểm xây dựng 3 công trình giếng nước, nhà tắm, hố tiêu. Năm 1977, Thị xã là một trong 6 huyện, thị của Tỉnh Thanh Hóa được công nhận là lá cờ đầu toàn quốc về phong trào này.
Trước tình hình bọn phản động quốc tế vẫn âm mưu thôn tính nước ta, toàn Đảng và toàn dân ta phải đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Ngày 19-6-1976, Đảng bộ Thị xã đã ra nghị quyết về công tác quân sự địa phương, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự xã hội trong tình hình mới là: Gắn liền với quy hoạch xây dựng Thị xã, kết hợp chặt chẽ với kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng pháo đài quân sự vững mạnh nhằm trước mắt nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu tại chỗ, chủ động đối phó thắng lợi trong mọi tình huống, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự xã hội, đồng thời xây dựng tích lũy mọi mặt để chuẩn bị tiến hành thắng lợi cuộc chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Thị xã ".
Toàn Đảng bộ và nhân dân đã nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, sẵn sàng chiến đấu và tập trung sản xuất mọi mặt để đập tan âm mưu xâm lược của kẻ thù trong mọi tình huống.
Những năm 1977-1978, Thị ủy đã chỉ đạo Công an Thị xã thực hiện tốt Chỉ thị 18/CT-BNV của Bộ Nội vụ về tập trung phát triển sâu rộng phong trào quần chúng “Bảo vệ an ninh Tổ quốc” và mục tiêu của Tỉnh ủy, Công an tỉnh Thanh Hóa: “Phấn đấu đạt hơn 70% xã, tiểu khu, cơ quan, xí nghiệp... có phong trào khá, thu hẹp diện trung bình, thanh toán yếu kém. Trước hết, tập trung phát động phong trào ở những xã, cơ quan, xí nghiệp trọng điểm”. Trong quá trình tổ chức thực hiện, Công an Thị xã đã tham mưu cho cấp ủy, chính quyền, lãnh đạo cơ quan, xí nghiệp sáng tạo nhiều hình thức phong phú, mà tiêu biểu nhất là phong trào “Tự quản đường phố” ở Thị xã.
Từ cuối năm 1978, Thị ủy đã chỉ đạo củng cố lực lượng sẵn sàng chiến đấu theo tinh thần Nghị quyết 04 của Tỉnh ủy về tăng cường công tác quân sự địa phương trong tình hình mới và quyết định của Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh về củng cố lại lực lượng vũ trang địa phương, chuyển biên chế, trang bị các đơn vị đang làm kinh tế sang làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu khi có lệnh. Trên địa bàn Thị xã, Trung đoàn 34 thành lập Đoàn cao xạ đảm nhiệm phòng không khu vực Hàm Rồng.
Ngày 17-2-1979, cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc diễn ra trên toàn tuyến biên giới phía Bắc. Tiếp tục phát huy truyền thống "Tòng quân giết giặc cứu nước", Đảng bộ Thị xã quyết định thành lập Trung đoàn Hàm Rồng do đồng chí Chỉ huy trưởng Ban Chỉ huy Quân sự Thị xã trực tiếp làm Trung đoàn trưởng và Sư đoàn dự nhiệm theo tinh thần Lệnh tổng động viên của Quốc hội và Chủ tịch Nước, bảo đảm vừa sẵn sàng chiến đấu bảo vệ địa phương, vừa sẵn sàng cơ động nơi xa.
Ngay từ khi có lệnh tổng động viên, Thị xã đã chú trọng xây dựng tuyến phòng thủ vững chắc. Các cụm chiến đấu đã hình thành và diễn tập theo mọi tình huống phương án tác chiến. Lực lượng dân quân tự vệ, công an được tăng cường về số lượng và chất lượng. Các tổ an ninh nhân dân ở cơ sở được củng cố. Các đơn vị như: Xí nghiệp Tàu thuyền, 19-5, Tiểu khu Nam Ngạn đã thực hiện nghiêm việc canh giữ bầu trời, mặt đất bằng chế độ mỗi ngày lao động sản xuất 8 giờ, luyện tập quân sự tuần tra canh gác 2 giờ. Nhân dân Thị xã đã đóng góp 22.070 ngày công xây dựng hầm hào chiến đấu; 186.860 viên gạch; 21 tấn vôi; 545m3 đá hộc và cát, 6,6 tấn xi măng để xây dựng bàn chông và hàng chục vạn mũi chông bằng sắt... Ngoài ra còn huy động được 251 tấn thóc, hàng ngàn tấm áo ấm, khăn len và tiễn đưa 4.723 thanh niên lên đường ra trận, góp phần cùng quân dân cả nước bảo vệ vững chắcnền độc lập, tự do và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Trong bối cảnh đó, từ ngày 25 đến ngày 28-6-1979, Đại hội đại biểu Đảng bộ Thị xã lần thứ XI đã diễn ra tại Thị xã Thanh Hóa, với sự tham dự của 306 đại biểu từ 187 chi bộ, đảng bộ cơ sở.
Trong 4 ngày làm việc, Đại hội đã nghe báo cáo của Ban Chấp hành Đảng bộ Thị xã do Đồng chí Bí thư Thị ủy trình bày; đã có 26 ý kiến tham gia thảo luận về Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ Thị xã. Đặc biệt, Đại hội được đồng chí Bí thư Tỉnh ủy dự và phát biểu chỉ đạo. Sau khi đánh giá những thành tích Đảng bộ và nhân dân Thị xã đạt được trong khôi phục, xây dựng và phát triển kinh tế-xã hội, đồng chí Bí thư Tỉnh ủy đã nêu rõ những tồn tại, khó khăn, hạn chế của Thị xã trong phát triển kinh tế là: "Về phát triển kinh tế Thị xã, mặc dù nguồn vốn, nguồn nhân lực không phải là không có nhưng tốc độ phát triển chậm. Thủ công nghiệp và tiểu công nghiệp chưa tận dụng được nguồn nhân lực sẵn có. Chưa hình thành được vành đai thực phẩm để giải quyết hậu cần tại chỗ ...".
Về phương hướng, nhiệm vụ của Thị xã trong nhiệm kỳ XI, Đại hội xác định: "Phát huy hơn nữa quyền làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của nhân dân lao động, ý chí tự lực tự cường, tinh thần cách mạng tiến công, khắc phục khó khăn, tận dụng thuận lợi nhằm tăng cường cải tiến quản lý kinh tế, tổ chức lại sản xuất trong cả tiểu, thủ công nghiệp, vận tải, nông nghiệp, tiếp tục phân bổ lại lực lượng lao động, sử dụng tốt khả năng lao động hiện có, tận dụng tốt công suất thiết bị, ruộng đất, vật tư, phế liệu, phế phẩm, khai thác thêm nhiều nguồn nguyên liệu mới, đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, đẩy mạnh sản xuất vụ đông, giải quyết vững chắc vấn đề lương thực và cung cấp ngày càng nhiều thực phẩm, thực hiện hậu cần tại chỗ. Đồng thời, tăng cường giữ vững an ninh chính trị, bảo vệ trật tự an toàn xã hội, đẩy mạnh quân sự hóa toàn dân, vũ trang toàn dân, khẩn trương chuẩn bị chiến đấu và chiến đấu thắng lợi; chi viện đầy đủ và kịp thời các yêu cầu của Tỉnh và cả nước (…), từng bước xây dựng Thị xã thành đơn vị kinh tế công - nông nghiệp, tổ chức tốt đời sống nhân dân và thành pháo đài vững chắc bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ...".
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành gồm 35 đồng chí, trong đó có 33 ủy viên chính thức và 2 ủy viên dự khuyết. Trong phiên họp thứ nhất (ngày 9-7-1979), Ban Chấp hành đã bầu 11 đồng chí vào Ban Thường vụ; đồng chí Lê Xuân Sang làm Bí thư Thị ủy; đồng chí Ngô Đức Kính làm Phó Bí thư thường trực; đồng chí Thiều Quang Mộc được tái cử Phó Bí thư phụ trách chính quyền;
Đại hội bầu Đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ X gồm 17 đồng chí. Đại hội đã thông qua Nghị quyết và Thư gửi cán bộ, đảng viên, nhân dân Thị xã.
Đại hội Đảng bộ Tỉnh Thanh Hóa lần thứ X (từ ngày 5 đến 12-10-1979) đã xác định phương hướng, nhiệm vụ những năm 1979-1980 là: “Nêu cao tinh thần làm chủ tập thể, yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội, phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, truyền thống đoàn kết, nhất trí, ý chí tự lực, tự cường, phát huy mọi nhân tố tích cực, khắc phục mọi khó khăn và những mặt tiêu cực; tiếp tục tổ chức lại sản xuất và cải tiến quản lý; kết hợp kinh tế với quốc phòng nhằm đẩy mạnh và mở rộng các ngành sản xuất; tập trung giải quyết vấn đề lương thực; hoàn thành các chỉ tiêu của kế hoạch 5 năm lần thứ hai, bảo đảm đời sống nhân dân, bảo đảm tốt các yêu cầu chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc; tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, đồng thời làm tốt nhiệm vụ quốc tế”.
Quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XI đối với Đảng bộ và nhân dân Thị xã cũng là quá trình quán triệt, thực hiện nhiều nghị quyết quan trọng của Đảng và Nhà nước, nhằm tháo gỡ những khó khăn ngày càng gay gắt về kinh tế-xã hội và đời sống nhân dân. Đó là quán triệt thực hiện các nghị quyết: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (khoá IV) tháng 8-1979, về cơ chế quản lý kinh tế, thực hiện những chủ trương và biện pháp cấp bách, mạnh mẽ, kiên quyết, nhằm đẩy mạnh sản xuất, ổn định và đảm bảo đời sống nhân dân; Nghị quyết số 26-NQ/TW, tháng 6-1980 của Bộ Chính trị về Cải tiến công tác phân phối và lưu thông (tài chính, tiền tệ, giá cả, tiền lương, thương nghiệp và quản lý thị trường); Chỉ thị số 100-CT/TW, ngày 13-1-1981 của Ban Bí thư Trung ương Đảng Về cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp (còn gọi là Khoán 100). Trên lĩnh vực công nghiệp, đó là việc thực hiện các quyết định của Hội đồng Chính phủ: Quyết định 25/CP, ngày 21-1-1981 về Một số chủ trương và biện pháp nhằm tiếp tục phát huy quyền chủ động sản xuất – kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh; Quyết định 26/CP, ngày 21-1-1981 về mở rộng hình thức trả lương khoán, lương sản phẩm và vận dụng hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất kinh doanh của Nhà nước,…
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ IX và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thị xã lần thứ XI, thực hiện Nghị quyết số 06-NQ-TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về “Sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu”, trong những năm 1979-1980, ngành Công nghiệp-Tiểu thủ công nghiệp của Thị xã đã mở rộng quy mô và phát triển các cơ sở sản xuất, nhất là những mặt hàng có ưu thế về nguyên liệu, tay nghề truyền thống nhằm cung cấp đủ hàng tiêu dùng và tăng nhanh hàng xuất khẩu. Các giải pháp cụ thể được tiến hành như: tăng cường năng lực chế biến lương thực, thực phẩm; phát triển cơ sở sản xuất đồ gỗ, tre, nứa; củng cố các cơ sở dệt thủ công; đẩy mạnh sản xuất các mặt hàng sành, sứ, thủy tinh; củng cố các cơ sở sản xuất hàng kim khí tiêu dùng; chú trọng cơ sở sản xuất, chế biến dược phẩm; tăng cường lực lượng lao động, mở rộng cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng.
Tuy gặp nhiều khó khăn về nguyên vật liệu, năng lượng, thiết bị, cán bộ chuyên môn kỹ thuật giỏi, nhưng các nhà máy, xí nghiệp, hợp tác xã đã chú trọng phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, đưa tiến bộ khoa học vào quy trình sản xuất. Các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh tập trung tháo gỡ khó khăn, duy trì sản xuất, giải quyết việc làm, từng bước ổn định đời sống công nhân viên chức, đóng góp cho ngân sách Nhà nước, như Xí nghiệp in Ba Đình, Dược phẩm, May cắt gia công; Cát sỏi Hàm Rồng, Điện cơ, v.v... Một số cơ sở tiểu thủ công nghiệp đã kịp thời chuyển hướng sản xuất, đầu tư trang bị kỹ thuật, thực hiện khoán, quản lý theo cơ chế mới phù hợp hơn. Đã có 8 hợp tác xã hoàn thành kế hoạch trong cả 5 năm, như: hợp tác xã Thành Công, Hợp Tiến, Chiến Thắng, Toàn Thành, Đồng Tiến, Tiến Lập, Sao Đỏ, Điện Biên. Chú ý khai thác và tận dụng nguyên liệu địa phương để tạo một số mặt hàng mới góp phần đáp ứng nhu cầu của thị trường trong và ngoài Thị xã, như: phấn viết bảng của hợp tác xã Sao Đỏ; đá xẻ xuất khẩu của hợp tác xã Đồng Minh; lốp xe đạp của hợp tác xã Minh Thành; gạch hoa xi măng của hợp tác xã Điện Biên,... Đồng thời, tạo thêm việc làm cho nhiều lao động, năm 1980 các đơn vị sản xuất của Thị xã đã tiếp nhận 563 lao động, trong đó có 260 lao động được đào tạo để làm hàng xuất khẩu.
Điểm nổi bật trong phát triển sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp là Thị ủy đã lãnh đạo, chỉ đạo các đơn vị trong ngành giúp nhau tháo gỡ khó khăn về vốn, vật tư, tiêu thụ sản phẩm có hiệu quả thiết thực.
Về nông nghiệp, thi đua với “Định Công”, các hợp tác xã nông nghiệp đã tích cực hưởng ứng phong trào "Tất cả các hợp tác xã làm vụ đông, nhà nhà làm vụ đông..." do Thị ủy, Ủy ban nhân dân Thị xã phát động.
Các hợp tác xã và xã viên đẩy mạnh khai hoang phục hóa, chấp hành tốt việc cho mượn đất ngoài kế hoạch của hợp tác xã để sản xuất vụ đông. Đến cuối năm 1979, diện tích vụ đông đã bằng 227% so với vụ đông năm 1978. Tổng sản lượng khoai tây và khoai lang đông đạt 297 tấn, góp phần tăng tổng sản lượng lương thực. Thị xã Thanh Hóa là đơn vị xếp thứ hai toàn Tỉnh về sản xuất nông nghiệp (về chăn nuôi, cấy hết diện tích và cho Nhà nước vay 54 tấn thóc trong lúc cả nước khó khăn).
Tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp của Thị xã gặp nhiều khó khăn bởi thời tiết diễn biến bất thường. Năm 1980, cơn bão số 6 và rét đậm kéo dài đã làm mất 40 tấn giống phải gieo lại, diện tích mất trắng là 554/1.390 ha. Đồng thời, vào thời điểm này, giá cả các mặt hàng phục vụ tiêu dùng và nông nghiệp tăng mạnh. Vì vậy, sản lượng vụ mùa năm 1980 chỉ đạt 1.403 tấn, bằng 50% sản lượng vụ mùa năm 1979 (Phú Sơn là hợp tác xã thâm canh giỏi nhưng chỉ đạt 145 tấn/năm so với năm 1979 là 291 tấn). Đời sống nông dân gặp rất nhiều khó khăn. Vấn đề thiếu lương thực nổi lên gay gắt.
Do sản xuất nông nghiệp giảm, nên chăn nuôi cũng giảm đáng kể. Năm 1980 đàn lợn chỉ có 5.654 con, sút hơn năm 1979 là 1.462 con, trong đó đàn lợn tập thể bằng 20% tổng đàn lợn và sụt so với năm 1979 là 836 con. Đàn lợn nái giảm mạnh, nên không đủ giống để cung cấp cho nhu cầu phát triển chăn nuôi những năm sau.
Vấn đề tổ chức lại sản xuất trong các hợp tác xã nông nghiệp được Thị ủy, Ủy ban nhân dân Thị xã quan tâm.
Thực hiện chủ trương điều chỉnh quy mô hợp tác xã và đội sản xuất, ba hợp tác xã: Đông Hải, Đông Hương, Đông Vệ trước đây có 42 đội sản xuất cơ bản, đến cuối năm 1980 điều chỉnh lại gồm 67 đội. Bảy hợp tác xã: Quảng Thắng, Đông Hải, Đông Thọ, Đông Hương, Tạnh Xá, Mật Sơn, Quảng Đại đã vận dụng hình thức khoán sản phẩm cây lúa cho người lao động đi đôi với cải tiến quản lý hợp tác xã.
Về xây dựng cơ bản, đã tập trung chỉ đạo thi công dứt điểm các công trình trọng điểm, như: san lấp mặt bằng khu dân cư phía Bắc Cầu Sâng, Trại Cá và mặt đường Lê Lợi; công trình xây dựng Bến xe khách v.v...
Về lưu thông phân phối, tài chính, ngân hàng, mặc dù còn nhiều khó khăn (nhất là do dân số tăng nhanh làm cho nhu cầu về nhiều mặt hàng tăng lên trong điều kiện cả nước đang mất cân đối giữa cung và cầu), các ngành trên đã kịp thời có những biện pháp tích cực để phục vụ đời sống nhân dân. Từ tháng 11-1980 trở đi, việc cung cấp lương thực theo 3 loại đối tượng được ổn định và đi vào nề nếp. Những hoạt động này đã góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển.
Sự nghiệp văn hóa - xã hội tiếp tục được quan tâm chăm lo. Thực hiện Nghị quyết số 11, ngày 11-1-1979 của Bộ Chính trị về cải cách giáo dục và lộ trình thực hiện cải cách giáo dục mà ngành giáo dục đề ra, từ năm học 1980-1981, ngành giáo dục Thị xã đã tích cực làm tốt khâu chuẩn bị giai đoạn I, tập trung xây dựng cơ sở vật chất, như đóng mới bàn ghế, xây dựng thêm phòng học đủ tiêu chuẩn. Từ năm học 1981-1982 đến năm học 1982-1983, hầu hết các trường phổ thông trên địa bàn Thị xã đã thực hiện cải cách giáo dục. Ngành đã tổ chức tốt các lớp mẫu giáo 5 tuổi; huy động tối đa trẻ 6 tuổi đến lớp 1; tận dụng các nguồn ngân sách địa phương và do nhân dân đóng góp để tăng cường cơ sở vật chất cho các lớp thay sách giáo khoa. Tổ chức bồi dưỡng nội dung sách giáo khoa, phương pháp giảng dạy các lớp cải cách giáo dục cho giáo viên.
Về giáo dục phổ thông cơ sở, số lớp hàng năm đều tăng: Năm 1978 có 24 lớp, năm 1979 có 51 lớp, năm 1980 có 99 lớp. Các trường: Ba Đình, Điện Biên, Lê Văn Tám, Cù Chính Lan, Minh Khai vẫn giữ vững là trường có chất lượng trong công tác dạy và học; giáo dục phổ thông trung học có những bước tiến cụ thể; tuy nhiên, giáo dục bổ túc văn hóa chất lượng có giảm sút, năm học 1979-1980 có 431/2.163 học viên tốt nghiệp, chiếm 23%.
Năm học 1980-1981, các trường cấp III Lam Sơn, Hàm Rồng, các trường hệ vừa học vừa làm có 68 lớp, với 3.561 học sinh; bình quân cứ 4 người dân có 1 người đến lớp. Những đội tuyển học sinh giỏi của Thị xã đóng vai trò là nhân tố chủ đạo trong đội tuyển học sinh giỏi của Tỉnh.
Lĩnh vực văn hóa – thể thao có những chuyển biến mới. Những năm 1978-1980, hoạt động văn hóa thông tin phát triển mạnh, đã mở một số lớp bồi dưỡng giáo viên múa, hát, nhạc; hệ thống thư viện trên địa bàn được củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động. Đến năm 1980 mở thêm 3 thư viện cơ sở, nâng tổng số lên 11 thư viện ở Thị xã. Thư viện Thị xã được nâng lên là Thư viện Tổng hợp, quan tâm thiết lập thư viện các cơ quan, xí nghiệp, trường học, bệnh viện. Thị xã cùng với các huyện như Hậu Lọc, Hoằng Hóa, Tĩnh Gia, Thọ Xuân, Thiệu Hóa, Yên Định, Bá Thước là những địa phương có hệ thống thư viện phát triển nhanh và mạnh nhất tỉnh, qua đó góp phần nâng cao dân trí, thúc đẩy phát triển kinh tế-văn hóa-xã hội của địa phương.
Quán triệt đường lối của Đảng về đẩy mạnh sản xuất, sẵn sàng chiến đấu, ngành bưu điện Thị xã đã kịp thời chuyển hướng hoạt động; chú ý xây dựng mạng lưới thông tin liên lạc theo hướng dự phòng, sẵn sàng phục vụ sản xuất và chiến đấu. Tổng đài ATZ-64, 400 số Thị xã Thanh Hóa –nơi tập trung các đầu mối thông tin của cả tỉnh đã được lắp đặt.
Hoạt động văn hóa- thông tin, thể thao đã hướng vào thực hiện nhiệm vụ chính trị và những nhiệm vụ chung, trọng tâm hoặc đột xuất, như đi phục vụ công trường, đường sắt và đồng cói Nga Sơn hay những đợt tuyển quân...
Sự nghiệp y tế được quan tâm chăm lo. Phong trào trồng cây dược liệu, sử dụng thuốc nam được phát động toàn Thị xã, chất lượng khám và chữa bệnh nội, ngoại trú của Bệnh viện Thị xã và các trạm xá Hoàng Hoa Thám, Nam Ngạn, Quảng Thắng, Đông Hải, Phú Sơn được nâng lên một bước mới. Ngành y tế đã triển khai thực hiện kế hoạch của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân Tỉnh về nâng cao chỉ tiêu phụ nữ đặt vòng tránh thai, theo hướng dẫn của Bộ Y tế, đã thực hiện 3 bước: Bước 1, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục; Bước 2, vận động phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ đăng ký đặt vòng; Bước 3, thực hiện kỹ thuật chuyên môn khám và đặt vòng. Đến năm 1980, Thị xã đã hạ tỷ lệ tăng dân số xuống còn 1,4%, góp phần làm cho tỉnh Thanh Hóa trở thành một trong 10 tỉnh dẫn đầu cả nước về phong trào đặt vòng tránh thai.
Việc thực hiện các chính sách xã hội được Ủy ban nhân dân Thị xã và Phòng Thương binh - xã hội quan tâm đúng mức. Toàn Thị xã đến cuối năm 1980 có 1.246 hộ gia đình liệt sĩ và có 1.274 thương binh. Các cơ sở, khu phố đã chăm lo ổn định đời sống của các đối tượng chính sách. Ủy ban nhân dân Thị xã đã trợ cấp đột xuất cho 739 gia đình thương binh và cấp học bổng cho 662 học sinh con thương binh, chăm sóc các cụ già neo đơn, gia đình đặc biệt khó khăn,… với tổng số tiền là 62.500 đồng.
Công tác quân sự địa phương, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội của Thị xã có chuyển biến tích cực. Công an Thị xã đã làm tốt công tác tham mưu cho Thị ủy và Ủy ban nhân dân Thị xã trong việc chỉ đạo đẩy mạnh phong trào “quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc” kết hợp với chấn chỉnh, xây dựng lực lượng công an "trong sạch vững mạnh". Phối hợp tổ chức tuyên truyền tài liệu “nâng cao cảnh giác, phòng chống gián điệp, biệt kích, phòng chống gây rối, gây bạo loạn” và tuyên truyền về những quy định, quyền hạn của tổ An ninh nhân dân, theo hướng dẫn của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy. Thông qua phong trào này, Thị xã đã xây dựng thêm nhiều tổ an ninh nhân dân. Cùng với đẩy mạnh phong trào “quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc”, lực lượng Công an Thị xã đã tham mưu cho các cấp, các ngành củng cố, kiện toàn tổ chức lực lượng bảo vệ cơ quan, xí nghiệp.
Trước tình hình các thế lực phản động, thù địch ráo riết tổ chức hoạt động xâm lấn biên giới, gây chiến tranh tâm lý, lực lượng công an Thị xã đã khẩn trương triển khai thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, của Bộ Nội vụ về tăng cường lực lượng bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, như: tăng cường các biện pháp nắm tình hình, chủ động phát hiện và ngăn chặn các hoạt động chống đối; tổ chức xây dựng địa bàn vững mạnh; soát xét, phân loại đối tượng chính trị, hình sự ở các tiểu khu và cơ quan xí nghiệp. Chủ động xây dựng phương án chiến đấu và tổ chức diễn tập ở địa bàn trọng điểm của Thị xã; thực hiện lập phương án bảo vệ nhân dân. Công an Thị xã đã thực hiện nghiêm túc Chỉ thị 09/CT-TU của Tỉnh ủy Thanh Hóa về “Xây dựng lực lượng công an nhân dân trong sạch, vững mạnh và đẩy mạnh phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, trong đó xây dựng, củng cố, kiện toàn mọi mặt lực lượng bảo vệ dân phố, bảo vệ cơ quan, xí nghiệp, lấy đó làm nòng cốt xung kích trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, trong các phong trào trên. Qua 5 năm thực hiện Chỉ thị 09 của Tỉnh ủy, Công an Thị xã không còn đơn vị yếu kém.
Đảng bộ tập trung chỉ đạo các lực lượng của khối nội chính có sự đồng tình ủng hộ của quần chúng tiến hành những đợt đấu tranh, vây quét các ổ, nhóm lưu manh, trộm cắp. Sự phối hợp giữa hai ngành Thuế và Quản lý thị trường ngay trên địa bàn các phường đã đem lại hiệu quả thiết thực, góp phần chống thất thu thuế. Thị xã là nơi tập trung đầu mối giao thông đường sắt của tỉnh, nên cấp ủy, chính quyền địa phương đã làm tốt công tác bảo vệ giao thông đường sắt, như: xác định rõ trách nhiệm của từng ngành và của Thị xã trong việc bảo đảm an toàn đường sắt; lực lượng công an, quân đội được tăng cường bảo vệ ở các trọng điểm, kết hợp với dân quân tự vệ tuần tra canh gác 24/24 giờ; tổ chức lực lượng điều tra, truy quét các đối tượng phá hoại; xử lý nghiêm minh những trường hợp vi phạm, qua đó lập lại trật tự an toàn đường sắt, chặn đứng tệ cướp giật, trộm cắp tài sản và tai nạn giao thông đường sắt giảm đáng kể.
Công tác tuyển quân hàng năm đều đạt chỉ tiêu về tiến độ, số lượng, chất lượng. Sau sự kiện tháng 2-1979, Ban Chỉ huy Quân sự Thị xã (Thị đội) tăng cường huấn luyện chính trị, kỹ thuật, chiến thuật cho các lực lượng vũ trang, nhất là dân quân tự vệ. Thị xã đã xây dựng và củng cố được 186 đơn vị dân quân tự vệ với 13.694 chiến sĩ, đóng vai trò là lực lượng xung kích trên mặt trận sản xuất ở cơ sở. Nhiều năm liền, Thị xã được biểu dương là đơn vị huấn luyện giỏi, được công nhận là "Đơn vị quyết thắng".
Trong công tác xây dựng Đảng, thông qua các đợt sinh hoạt chính trị lớn như thực hiện Nghị quyết 23, Thông tri 22, Chỉ thị 72 của Trung ương và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XI, Đảng bộ Thị xã đã gắn được công tác xây dựng Đảng với nhiệm vụ chính trị, từ đó nâng cao vai trò, vị trí của tổ chức cơ sở Đảng và đội ngũ đảng viên trong mọi lĩnh vực.
Đảng bộ chú ý nâng cao chất lượng đảng viên và củng cố tổ chức cơ sở Đảng. Tổ chức Đảng được sắp xếp lại phù hợp hơn với điều kiện của các đơn vị sản xuất, công tác; chấn chỉnh một bước công tác sinh hoạt đảng; cải tiến lề lối làm việc. Đảng viên được phân công hướng dẫn quần chúng tham gia xây dựng Đảng; làm tốt công tác kỷ luật đảng. Đội ngũ cán bộ cốt cán được phát triển theo hướng tăng thêm cán bộ trẻ; bước đầu xây dựng quy hoạch cán bộ và đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Năm 1980 được Đảng bộ xác định là năm xây dựng Đảng. Đảng bộ Thị xã đã tổ chức tốt việc phát thẻ đảng viên đợt 3-2-1980 trên cơ sở phân loại tổ chức cơ sở đảng và đảng viên; trong đó những chi bộ, Đảng bộ được chọn phát thẻ đảng viên là những đơn vị được củng cố tốt; đối với đảng viên, là những đảng viên đủ tư cách làm tròn nhiệm vụ. Các cấp ủy Đảng coi việc thực hiện phát Thẻ đảng viên là nhiệm vụ trọng tâm. Ban Tổ chức Thị ủy cùng với Ban Tuyên huấn, Ủy ban kiểm tra đã giúp cấp ủy triển khai đợt sinh hoạt chính trị rộng rãi về phát thẻ đảng viên. Đảng bộ đã làm thí điểm phát Thẻ đảng viên nhân kỷ niệm 50 năm Ngày thành lập Đảng (3-2-1980) ở 6 Đảng bộ là: Đảng bộ Cơ quan Thị ủy; Xí nghiệp Cơ khí tỉnh, Xí nghiệp In Ba Đình, Liên hiệp Công đoàn, Ty Lao động; hợp tác xã Cơ khí Thành Công với số lượng 300 đồng chí. Sau đó, tiếp tục phát Thẻ đảng viên trong 3 đợt nữa (19-5; 2-9; 7-11). Qua 4 đợt đã tiến hành phát Thẻ cho 130/180 cơ sở Đảng (69,0%); đã có 6.228/9.154 đảng viên toàn Đảng bộ (68,3%) được phát Thẻ đảng viên. Những đơn vị được phát Thẻ đảng viên đều có những chuyển biến tích cực trong việc gắn công tác xây dựng Đảng với thực hiện nhiệm vụ chính trị. Các đơn vị chưa được phát Thẻ đã tích cực phấn đấu củng cố tổ chức cơ sở Đảng và rèn luyện phẩm chất đảng viên. Đến cuối năm 1980, toàn Đảng bộ có 9 tổ chức cơ sở Đảng đạt danh hiệu "trong sạch vững mạnh", 160 đơn vị khá, 16 đơn vị còn yếu.
Để làm tốt công tác phát triển Đảng, Ban Tuyên huấn kết hợp với Thị Đoàn mở các lớp bồi dưỡng lý luận chính trị cho các đoàn viên ưu tú theo chương trình trung, sơ cấp lý luận. Năm 1980 mở được 4 lớp với 980 học viên, trong 2 năm 1979-1980 đã có 1.730 đối tượng được bồi dưỡng. Nhờ đó năm 1980 đã kết nạp được 315 đảng viên mới, tăng gấp hơn 2 lần so với năm 1979. Chất lượng nguồn kết nạp được coi trọng, số đông là đoàn viên ưu tú, lao động tiên tiến, có những người đã nhiều năm đạt danh hiệu Chiến sĩ thi đua. Đến năm 1981, Đảng bộ có 9.154 đảng viên (đa số cán bộ, đảng viên được kết nạp và tôi luyện, thử thách qua hai cuộc kháng chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội), nhìn chung vững vàng về chính trị, có phẩm chất đạo đức cách mạng tốt.
Qua hoạt động thực tiễn, nhiều đảng viên đã nhanh chóng trưởng thành, song cũng còn một bộ phận nhỏ thoái hóa biến chất, làm hạn chế nhất định đến chất lượng lãnh đạo của tổ chức Đảng cơ sở. Được sự chỉ đạo chặt chẽ của Ban Thường vụ, Ủy ban Kiểm tra Thị ủy đã kịp thời có những hình thức xử lý kỷ luật theo quy định của Điều lệ Đảng. Năm 1980 đã xử lý 183 vụ kỷ luật (chiếm 2% tổng số đảng viên), trong đó khai trừ Đảng 66 đảng viên và nhiều hình thức kỷ luật khác đối với những đảng viên vi phạm nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng và pháp luật Nhà nước.
Cùng với đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng, Đảng bộ quan tâm chỉ đạo xây dựng tổ chức bộ máy chính quyền và các đoàn thể quần chúng trong sạch vững mạnh. Trên cơ sở chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật Nhà nước, các nghị quyết của Đảng bộ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân Thị xã đã có những chính sách đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển kinh tế-xã hội của địa phương. Thị xã đã tiến hành tốt các khóa bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, kiện toàn tổ chức bộ máy chính quyền cơ sở, bảo đảm vai trò quản lý kinh tế và xã hội ở địa phương. Các ban chuyên môn của Ủy ban nhân dân đã đi vào trọng tâm công tác của ngành mình, phối hợp với các ngành có liên quan để thực hiện chủ trương chung của ngành mình, cấp mình và bước đầu khắc phục biểu hiện trông chờ, đùn đẩy, ỷ lại.
Các đoàn thể đã chú ý giáo dục đoàn viên, hội viên quán triệt các nghị quyết của Đảng và động viên thi đua, thực hiện có kết quả các mục tiêu kinh tế - xã hội.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Tổng Công Đoàn Việt Nam lần thứ 7 khóa IV (1978) về xây dựng Công đoàn cấp huyện, thị, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, Liên đoàn lao động tỉnh, Thị ủy đã trực tiếp chỉ đạo xây dựng tổ chức Liên đoàn Lao động Thị xã. Công đoàn phát huy vai trò giám sát nói chung và tham gia tổ chức đời sống công nhân viên chức lao động. Năm 1980 đã tiến hành 52 lượt kiểm tra các cửa hàng, đề xuất hàng trăm kiến nghị về phân phối lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng cho người lao động.
Đoàn thanh niên tiếp tục động viên tuổi trẻ hưởng ứng phong trào thi đua “Ba xung kích làm chủ tập thể” do Trung ương Đoàn phát động (tháng 1-1978). Sau khi xảy ra chiến tranh biên giới (17-2-1979), Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Lời kêu gọi toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Đáp Lời kêu gọi của Đảng, tuổi trẻ Thị xã cùng tuổi trẻ toàn tỉnh Thanh Hóa hăng hái tình nguyện ghi tên lên đường chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.
Đoàn thanh niên Thị xã đã tổ chức cho các đoàn viên thanh niên đăng ký tham gia các đội xung kích; tổ chức các buổi sinh hoạt theo chủ đề “Tuổi trẻ với Tổ quốc xã hội chủ nghĩa”, “Tuổi trẻ bàn việc nước”, “Học tập Lê Đình Chinh, hành dộng như Lê Đình Chinh”, lực lượng dân quân tự vệ tổ chức hội trại “Tuổi trẻ giành đỉnh cao hai giỏi”,... Đoàn viên thanh niên Thị xã cùng với đoàn viên thanh niên toàn tỉnh vừa hăng hái tham gia sản xuất, vừa học tập, vừa luyện tập quân sự, với khẩu hiệu: “Xung kích trong chiến đấu và sằn sàng chiến đấu”, “Xung kích trong lao động, xây dựng đất nước”, “Xung kích trong học tập, rèn luyện xây dựng cuộc sống”; tích cực tổ chức ngày “Lao động cộng sản”, thực hiện phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, hướng dẫn Thiếu niên nhi đồng thực hiện tốt phong trào “Trần Quốc Toản”...
Đảng bộ lãnh đạo tổ chức Đoàn các cấp quan tâm chỉ đạo thực hiện tốt Nghị quyết số 17-NQ/TU, ngày 16-10-1981 Về công tác vận động thanh niên, nhằm phát huy mạnh mẽ vai trò xung kích làm chủ tập thể của thanh niên, phấn đấu thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị; tăng cường giáo dục cộng sản chủ nghĩa cho thanh niên một cách toàn diện, cả về lý tưởng cách mạng, khoa học kỹ thuật, văn hóa, nghiệp vụ; tổ chức tập hợp, đoàn kết rộng rãi thanh niên xây dựng Đoàn vững mạnh; đẩy mạnh cuộc vận động “Toàn Đoàn tham gia xây dựng Đảng”; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nêu cao trách nhiệm của chính quyền, các ngành đối với công tác thanh niên...
Đoàn Thanh niên đã quan tâm công tác kết nạp phát triển đoàn viên và chú ý công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đoàn các cấp. Năm 1980, đã kết nạp 2.050 đoàn viên mới, mở lớp bồi dưỡng công tác Đoàn cho 400 ủy viên Ban Chấp hành Đoàn cơ sở.
Hưởng ứng phong trào thi đua “Người phụ nữ mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” do Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phát động (ngày 8-3-1978), dưới sự lãnh đạo của Thị ủy, Ủy ban nhân dân Thị xã và của Hội Liên hiệp Phụ nữ tỉnh, phụ nữ Thị xã đã tích cực tham gia phong trào với các nội dung cụ thể, như: “Lao động sản xuất, tiết kiệm, chấp hành chính sách tốt”, “Sẵn sàng phục chiến đấu và chiến đấu, động viên chồng, con, em đi chiến đấu”, “Tổ chức gia đình tốt, nuôi dạy con theo 5 điều Bác Hồ dạy”, “Đoàn kết, học tập, thương yêu giúp nhau cùng tiến bộ”.
Phụ nữ Thị xã tích cực hưởng ứng phong trào “Mùa Đông chiến sĩ hướng về tiền phương” do Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam phát động, bằng các việc làm thiết thực: mua sắm chăn bông, áo len, khăn len, cử đoàn đại biểu đi thăm và tặng quà các chiến sĩ đang làm nhiệm vụ bảo vệ biên giới, quần đảo Trường Sa; đóng góp tiền của cùng nhân dân địa phương xây dựng nhà tình nghĩa, trao tặng các gia đình thương binh, liệt sĩ; đỡ đầu con liệt sĩ. Hội Phụ nữ Thị xã qua các phong trào đã động viên hội viên các cấp tích cực lao động sản xuất và thực hành tiết kiệm, chăm lo bà mẹ trẻ em. Đã có 52% số hội viên đạt 4 nội dung thi đua của phong trào, 9 chi hội đạt danh hiệu tiên tiến...
Hệ thống tổ chức bộ máy Ủy ban Mặt trận Tổ quốc được kiện toàn một bước với việc thành lập hệ thống tổ chức ở các tiểu khu, khu phố, các xã. Mặt trận Tổ quốc đóng vai trò tích cực trong công tác xây dựng Đảng, chính quyền và thúc đẩy các phong trào thi đua của quần chúng nhân dân. Các cụ phụ lão đã gương mẫu đi đầu trong phong trào trồng cây, trồng dược liệu, chăm sóc giáo dục con cháu.
Hội Nông dân tập thể được thành lập, đến năm 1980 đã kết nạp được 6.158 hội viên. Hội đóng vai trò nòng cốt trong vận động hội viên, người nông dân thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển.
Trong 5 năm thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976-1980), bên cạnh những thuận lợi, Thị xã còn gặp rất nhiều khó khăn do thiên tai gây ra; hầu như năm nào cũng bị thiên tai nặng nề. Tuy vậy, bằng sự nỗ lực vượt bậc của các tầng lớp nhân dân, bằng những chủ trương kịp thời, đúng đắn, Đảng bộ Thị xã đã lãnh đạo phát triển sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, phát triển văn hóa; kịp thời khắc phục những thiệt hại do bão, lũ lụt gây ra. Đời sống của các tầng lớp nhân dân tuy còn khó khăn, nhưng không xảy ra nạn đói. An ninh chính trị được giữ vững, nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Đảng bộ trưởng thành, có thêm kinh nghiệm lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị.
Song, so với mục tiêu, kế hoạch mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XI đề ra, tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của Thị xã còn chậm. Là một Thị xã trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của cả tỉnh, sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp được xác định là trung tâm, nhưng tốc độ tăng trưởng hàng năm có xu hướng chậm lại. Trong 3 năm 1975-1978 tốc độ tăng chỉ đạt 1,9%, năm 1980 chỉ đạt 88,8% so với năm 1978.
Nguyên nhân của tình hình trên một mặt là do hậu quả chiến tranh; mặt khác, thiên tai xảy ra liên tiếp, việc phân cấp và những điều kiện cần có để thực hiện chức năng lãnh đạo, quản lý toàn diện Thị xã từ thời kỳ chiến tranh sang hòa bình, xây dựng, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa cần có thời gian hình thành.
Đến năm 1980, Thị xã cũng như tỉnh Thanh Hóa và các địa phương trong phạm vi cả nước lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, đòi hỏi phải có những tìm tòi, đổi mới để thoát khỏi những khó khăn gay gắt về kinh tế-xã hội, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân.
II. THÁO GỠ KHÓ KHĂN, BƯỚC ĐẦU THỰC HIỆN ĐỔI MỚI CƠ CHẾ QUẢN LÝ KINH TẾ, ỔN ĐỊNH ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN (1981-1985)
Nhằm từng bước đưa nền kinh tế-xã hội nước ta ra khỏi tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng, củng cố lòng tin của quần chúng nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, Đảng ta đã có những tìm tòi, đổi mới từng phần trong các quyết sách phát triển kinh tế-xã hội.
Thực hiện chủ trương của Hội nghị Trung ương 6 khoá IV (tháng 8 – 1979) làm cho sản xuất “bung ra” đánh dấu bước đột phá đầu tiên của quá trình đổi mới ở nước ta, trên phạm vi cả nước đã có những “tín hiệu” mới trong chỉ đạo từng bước đổi mới các quan hệ kinh tế, nhất là đổi mới lưu thông phân phối, khắc phục tình trạng khan hiếm hàng hóa và tiến tới xây dựng một thị trường thông suốt, tạo động lực phát triển của các ngành sản xuất.
Tháng 10-1979, Chính phủ ban hành Quyết định 373/CP và 347/CP về xóa bỏ các trạm kiểm soát có tính “ngăn sông cấm chợ”. Mở lối cho các loại sản phẩm được trao đổi trên thị trường tự do, theo giá thỏa thuận sau khi đã nộp đủ nghĩa vụ cho Nhà nước. Tháng 6-1980, Bộ Chính trị họp hội nghị chuyên bàn về cải tiến chính sách phân phối lưu thông và ngày 23-6-1980, ra Nghị quyết số 26-NQ/TW về Cải tiến công tác phân phối và lưu thông (tài chính, tiền tệ, giá cả, tiền lương, thương nghiệp và quản lý thị trường). Tháng 2-1981, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 9 (khóa IV), ra Nghị quyết về phương hướng, nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 1981. Hội nghị chủ trương phải sửa chữa các khuyết điểm trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội, nhất là phải đổi mới công tác kế hoạch hóa và cải tiến một cách cơ bản chính sách kinh tế làm cho sản xuất "bung ra" theo phương hướng kế hoạch hóa của Nhà nước.
Tháng 3-1982, đã diễn ra Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng. Trên cơ sở phân tích tình hình trong và ngoài nước, đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội IV, tình hình thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ 2 (1976-1980), Đại hội đã đề ra hai nhiệm vụ chiến lược trong giai đoạn cách mạng mới: Một là, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội; Hai là, sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V có ý nghĩa quan trọng trong quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội của đất nước ta. Đại hội tự phê bình và phê bình thẳng thắn, nghiêm túc những khuyết điểm, yếu kém của Đảng trong lãnh đạo quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Đại hội bước đầu đổi mới tư duy, khi nhấn mạnh, nông nghiệp là mặt trận hàng đầu trong chặng đường trước mắt, coi ổn định tình hình kinh tế - xã hội là nhiệm vụ bức thiết nhất.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội V của Đảng và các quan điểm, chính sách mới của Nhà nước, của Tỉnh ủy trên lĩnh vực kinh tế, Đảng bộ Thị xã và Thường vụ Thị ủy đã lần lượt có những Nghị quyết về các lĩnh vực sản xuất, lưu thông... nhằm thúc đẩy người lao động và các cơ sở kinh tế quan tâm đến sản xuất và kinh doanh. Phương hướng, nhiệm vụ năm 1981 và các năm tiếp theo được Đảng bộ đề ra là: "Đẩy mạnh sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp và nông nghiệp, trên cơ sở kết hợp cơ giới và thủ công, thực hiện nghiêm ngặt chế độ tiết kiệm, tăng cường quản lý thị trường, đấu tranh chống đầu cơ buôn lậu, điều tiết thu nhập của các bộ phận dân cư theo hướng tăng thu nhập cho người lao động sản xuất giỏi; đẩy mạnh cách mạng tư tưởng văn hóa, tăng cường phổ biến khoa học kỹ thuật và áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, kiên quyết đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực mà trọng tâm là bảo vệ an ninh chính trị, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, tạo chuyển biến sâu sắc về công tác tổ chức cán bộ và tích cực sửa đổi lề lối làm việc, hoàn thành việc phát Thẻ đảng viên, xây dựng các Đảng bộ, chi bộ vững mạnh".
Bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ ba (1981-1985), trước những khó khăn về sản xuất như thiếu nguyên, nhiên liệu, điện, phân bón và tình trạng thiếu lương thực, thực phẩm làm cho đời sống nhân dân ngày càng khó khăn gay gắt và các tiêu cực ngoài xã hội phức tạp hơn, Thị ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân Thị xã đã có những biện pháp để khôi phục và phát triển sản xuất, ổn định đời sống nhân dân.
Trước hết về sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (khóa IV) và Quyết định 25/CP, 26/Cp của Chính phủ, Thị ủy đã có những biện pháp lãnh đạo và chỉ đạo chặt chẽ, kiểm tra thường xuyên, phát động phong trào thi đua liên tục. Các cấp ủy cơ sở quán triệt và triển khai kịp thời các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên, chuyển hướng sản xuất, cải tiến quản lý, thực hiện khoán tiền lương, tiền thưởng, tiết kiệm vật tư, tự lo giải quyết nguyên vật liệu, đảm bảo 3 lợi ích: Nhà nước, tập thể và người lao động. Do vậy, đã đảm bảo được đời sống công nhân, duy trì được sản xuất.
Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ VIII. Trang 14.
Nghị quyết số 07- NQ/TU ngày 17-10-1975 của Ban Chấp hành Đảng bộ Thị xã, lưu tại Văn phòng Thành ủy Thành phố Thanh Hóa. Trang 4.
Nghị quyết Ban Chấp hành Đảng bộ Thị xã về nhiệm vụ, chủ trương, biện pháp công tác cán bộ trong thời gian tới. Trang 3.
Báo cáo của Ban Chấp hành Đảng bộ Thị xã Thanh Hóa tại Đại hội đại biểu khóa X (6-1977).
Nghị quyết số 02 NQ/TU ngày 19-9-1977. Lưu tại Văn phòng Thành ủy Thanh Hóa.
Dứt điểm 3 công trình: vệ sinh - giếng nước, nhà tắm, hố tiêu; Dứt điểm về sinh đẻ có kế hoạch; Dứt điểm về việc trồng và sử dụng thuốc nam; Dứt điểm về quản lý sức khỏe nhân dân; Dứt điểm về kiện toàn bộ máy y tế cơ sở.
Báo cáo của Ban Chấp hành tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Thị xã Thanh Hóa lần thứ XI. Lưu tại Văn phòng Thành ủy thành phố Thanh Hóa.
Báo cáo của Ủy ban Kiểm tra Thị ủy, số 05 KT/UBTX, ngày 25-5-1981.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo tổng kết Một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 20 năm đổi mới ( 1986 – 2006), Nxb CTQG, tr 39.
Sđd, tr.51, 52
Báo cáo tổng kết năm 1980 phương hướng nhiệm vụ năm 1981. Trang 16. Lưu tại Văn phòng Tỉnh ủy.
Ngành tiểu thủ công nghiệp đã phấn đấu vượt qua khó khăn để duy trì sản xuất, một số cơ sở đã kịp thời chuyển hướng sản xuất, đầu tư trang thiết bị kỹ thuật, thực hiện khoán, cải tiến cơ chế quản lý cho phù hợp.
Thực hiện Chỉ thị 100 của Ban Bí thư và quan điểm coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu của Đại hội V, công tác khoán sản phẩm trong nông nghiệp được tăng cường, từng bước hoàn thiện đã khuyến khích mạnh mẽ người lao động hăng hái sản xuất, áp dụng tiến bộ kỹ thuật, đặc biệt là sử dụng giống mới, chủ động tạo thêm nguồn phân bón, tích cực thâm canh… Nhờ đó mà sản xuất nông nghiệp tăng nhanh cả về năng suất và sản lượng. Sản lượng lương thực tăng trên tất cả các vùng, vượt kế hoạch Nhà nước. Do đó, chăn nuôi cũng có điều kiện phát triển.
Trên cơ sở nắm vững đặc điểm, tình hình sản xuất nông nghiệp của Thị xã khi bước vào thực hiện kế hoạch năm 1981 và 5 năm 1981-1985[1], Thường vụ Thị ủy đã kịp thời tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết của Đảng đến từng Đảng bộ và các tổ chức quần chúng. Vận dụng cụ thể trên địa bàn Thị xã, Thị ủy chủ trương cho 2 hợp tác xã Đông Hải và Đông Vệ được điều chỉnh quy mô hợp tác xã (mỗi đơn vị lập 3 hợp tác xã), đồng thời tiến hành thực hiện cơ chế khoán mới ở 6 hợp tác xã, là: Vạn Sơn, Thành Đồng, Lễ Môn, Tạnh Xá, Quảng Đại, Mật Sơn. Vụ chiêm năm 1981 Thị ủy tiến hành chỉ đạo thực hiện khoán ở hợp tác xã Quảng Thắng, Đông Thọ, vụ mùa năm 1981 tiến hành ở 5 hợp tác xã còn lại. Chủ trương đó đã kịp thời, đáp ứng nguyện vọng và lợi ích của xã viên. Do đó, 13/13 hợp tác xã trong Thị xã đã thực hiện "khoán 100" toàn bộ diện tích lúa chiêm xuân. Các hợp tác xã được tiến hành khoán, xác định diện tích, năng suất, đối tượng nhận khoán và rà soát lại phương hướng sản xuất kinh doanh. Xã Đông Hải khoán khâu làm đất; xã Đông Thọ tổ chức đội chuyên canh giống lúa cho tập thể; Phú Sơn khoán chăn nuôi; Đông Hương khoán lao động làm công tác bảo vệ thực vật.
Thị xã đã xây dựng mới 5 km kênh tưới tiêu, 3 trạm bơm điện, nhà để giống lúa; mua 5 máy Bông Sen và chú ý cải tạo đồng ruộng. Trạm Vật tư và Công ty Dịch vụ nông nghiệp được thành lập, đóng vai trò cung ứng kịp thời các loại vật tư, thuốc phòng trừ sâu bệnh cho lúa, hoa màu và phòng dịch cho gia súc.
Nhờ khoán mới phù hợp với nguyện vọng của nông dân, nên mặc dù nguồn vật tư cung ứng vẫn còn hạn chế, thiên tai diễn biến phức tạp, diện tích gieo trồng giảm 133 ha (do mở đường, làm nhà ở, xây dựng các công trình thủy lợi), nhưng sản lượng lương thực, làm nghĩa vụ cho Nhà nước và đời sống nhân dân vẫn ổn định theo hướng đi lên: năm 1981 sản lượng lương thực đạt 5.970 tấn và năm 1982 đạt 6.000 tấn. Tổng mức huy động lương thực năm 1982 đạt 2.000 tấn. Bình quân lương thực đầu người tăng từ 9kg/tháng năm 1981 lên 11kg/tháng năm 1982. Do sản xuất lương thực tăng nên chăn nuôi có điều kiện phát triển, tổng đàn lợn trong các gia đình lên tới hàng ngàn con.
Bên cạnh tập trung ổn định và phát triển kinh tế, Đảng bộ Thị xã quan tâm xây dựng, củng cố hệ thống chính quyền, nhất là chính quyền cơ sở.
Năm 1985, Thị ủy đã lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện thắng lợi cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, qua đó tạo điều kiện phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực, góp phần xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh. Các ban chuyên môn của Ủy ban nhân dân Thị xã và cán bộ chuyên trách của các phường, xã được sắp xếp, bố trí lại, bảo đảm gọn nhẹ và hoạt động có hiệu quả hơn. Theo Quyết định số 3/CP ngày 3-4-1981 của Chính phủ, các Tiểu khu hành chính thuộc Thị xã gọi là phường. Thị xã lúc này gồm có 8 phường[2] và 5 xã.
Hoạt động của các đoàn thể hướng vào việc vận động đoàn viên, hội viên tham gia các phong trào thi đua yêu nước. Đặc biệt trong công nhân viên chức có phong trào thi đua phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật. Riêng khu vực công nghiệp nhờ có phong trào này, đã tiết kiệm được cho Nhà nước hàng triệu đồng.
Trong tổ chức Đoàn, phong trào phát huy sáng kiến diễn ra sôi nổi và năng động nhất. Đến năm 1982 có 162 cơ sở Đoàn, 13.700 đoàn viên trong tổng số 22.000 thanh niên. Qua hoạt động đã xuất hiện 3.100 đoàn viên ưu tú, 1.200 đoàn viên được giới thiệu để kết nạp Đảng.
Công tác xây dựng Đảng được quan tâm, tạo ra những tiến bộ mới. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Thường vụ Thị ủy, năm 1981 tiếp tục thực hiện phát Thẻ đảng viên vào 3 đợt (Ngày thành lập Đảng 3-2; Ngày sinh Bác Hồ 19-5; Quốc khánh 2-9) tại 105 chi bộ và Đảng bộ cơ sở bằng 55,2% và 4.436 đảng viên, chiếm tỷ lệ 48,3% so với tổng số đảng viên trong toàn Đảng bộ. Tính đến ngày 16-11-1981, toàn Đảng bộ đã phát thẻ đảng viên được 194/194 cơ sở với 8.839 đảng viên, chiếm 96% tổng số đảng viên trong toàn Đảng bộ. Đến đầu năm 1983, Đảng bộ có 9.362 đảng viên sinh hoạt ở 198 chi bộ; thực hiện chủ trương tổ chức, kiện toàn một bước tổ chức cơ sở đảng, tháng 10-1984 Đảng bộ bàn giao 49 cơ sở đảng cho Đảng ủy khối.
Thành tích đạt được trong hai năm đầu thực hiện Kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ ba cũng là hai năm hoàn thành nhiệm vụ mà Đại hội Đảng bộ Thị xã lần thứ XI đề ra. Đảng bộ Thị xã đã từng bước khẳng định sự trưởng thành trong công tác lãnh đạo.
Trên cơ sở những thành tựu đã đạt được, quán triệt tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V và Dự thảo Đề cương báo cáo của Tỉnh ủy tại Đại hội Đảng bộ lần thứ XI, ngày 15-3-1983 Đại hội đại biểu Đảng bộ Thị xã Thanh Hóa lần thứ XII (vòng 2) đã khai mạc trọng thể tại Hội trường Thị ủy, 339 đại biểu thay mặt cho 9.123 đảng viên ở 194 cơ sở Đảng đã về dự đông đủ. Đồng chí Bí thư Tỉnh ủy đã về chỉ đạo Đại hội. Đại hội đã nghe báo cáo tổng kết nhiệm kỳ XI và phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu 3 năm (từ 1983 đến 1985) của Đảng bộ.
Căn cứ đặc điểm, tình hình của Thị xã, Đại hội đề ra mục tiêu chung và những mục tiêu cụ thể về phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương và xác định rõ nhiệm vụ chủ yếu trong ba năm 1983-1985: "Ra sức nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, tăng cường hiệu lực quản lý hành chính nhà nước, quản lý xã hội và quản lý kinh tế, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ xã hội chủ nghĩa của nhân dân lao động; thực hiện một sự chuyển biến căn bản về tập trung sức đẩy mạnh sản xuất công nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp, nông nghiệp, vận tải mà trọng tâm là sản xuất tiểu, thủ công nghiệp và vận tải, lo đủ việc làm cho người lao động. Phấn đấu ổn định đời sống nhân dân về vật chất và có phần được cải thiện về tinh thần. Xây dựng nếp sống sản xuất công nghiệp, lối sống lành mạnh, giản dị, tiết kiệm. Đề cao cảnh giác cách mạng, kiên quyết đánh thắng kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của kẻ thù, gắn liền với chống tiêu cực, nhằm giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, từng bước xây dựng Thị xã Thanh Hóa thành một đơn vị giàu về kinh tế, vững về chính trị, mạnh về an ninh, quốc phòng và đẹp về văn hóa"[3].
Từ phương hướng, nhiệm vụ chung đó, tập trung xây dựng Thị xã trên ba mặt công tác lớn:
- Tổ chức lại ngành nghề tiểu, thủ công nghiệp, phát triển mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, đảm bảo việc làm cho mọi người lao động, tổ chức tốt đời sống nhân dân.
- Thực hiện quốc phòng toàn dân, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự xã hội, xây dựng nếp sống mới, kiên quyết đấu tranh đánh bại kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của kẻ địch gắn liền với chống tiêu cực.
- Ra sức xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh.
Sau 4 ngày làm việc (từ ngày 15 đến 18-3-1983), Đại hội đã hoàn thành chương trình nghị sự. Đại hội bầu Ban Chấp hành, gồm 33 ủy viên chính thức và 2 ủy viên dự khuyết. Ban Chấp hành đã bầu đồng chí Hoàng Tạ làm Bí thư; bầu đồng chí Ngô Đức Kính, Trần Văn Lãm làm Phó Bí thư.
Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XI (nhiệm kỳ 1983-1985), từ ngày 28-3 đến 1-4-1983, đã xác định phương hướng, nhiệm vụ của tỉnh trong những năm 1983-1985:
Đổi mới cách làm, phát huy tiềm năng, thế mạnh của 4 vùng kinh tế, coi trọng năng suất, chất lượng và hiệu quả, sản xuất ra nhiều hàng hóa, nhất là lương thực, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, xây dựng văn hóa và nếp sống mới, ổn định và dần nâng cao đời sống nhân dân, tăng cường quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Nâng cao cảnh giác trước mọi âm mưu, thủ đoạn của địch, phát động quần chúng xây dựng lực lượng sẵn sàng chiến đấu, chủ động tiến công, phòng ngừa đập tan kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của kẻ địch, gắn liền với đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tiêu cực. Tăng cường hơn nữa quốc phòng-an ninh; đồng thời, làm tốt nhiệm vụ chi viện cho tiền tuyến và làm nghĩa vụ quốc tế.
Tăng cường công tác xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh, lãnh đạo thực hiện thắng lợi 2 nhiệm vụ chiến lược.
Những năm 1983 – 1985, kinh tế-xã hội của Thị xã cũng như cả nước nói chung, lâm vào khủng hoảng ngày càng nặng nề. Sản xuất trì trệ, nhiều mặt sa sút, nhất là sản xuất lương thực; những động lực do khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động theo Chỉ thị 100 của Ban Bí thư chưa đủ sức đưa kinh tế nông nghiệp ra khỏi khó khăn. Dân số tăng nhanh; đời sống nhân dân, đặc biệt là những người ăn lương, lực lượng vũ trang, gặp khó khăn gay gắt.
Trong hoàn cảnh đó, thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XII, Đảng bộ Thị xã đã lãnh đạo cán bộ, đảng viên và nhân dân nỗ lực phấn đấu, vượt qua nhỉều khó khăn, tập trung ổn định và phát triển sản xuất tiểu thủ công nghiệp, gắn với giải quyết việc làm, ổn định đời sống của người lao động.
Sau ba năm phấn đấu, vượt qua nhiều khó khăn gian khổ, Đảng bộ và nhân dân Thị xã Thanh Hóa đạt được những kết quảquan trọng trên tất cả các lĩnh vực.
Sản xuất công nghiệp tuy thiếu nguyên vật liệu, năng lượng, hệ thống chính sách kinh tế mới chưa hoàn thiện, song nhờ tinh thần chủ động, sáng tạo của các đơn vị và chuyển hướng sản xuất, tìm kiếm mặt hàng mới, tăng cường liên kết kinh tế, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, sắp xếp hợp lý lao động nên đã hoàn thành kế hoạch Nhà nước, từng bước ổn định đời sống cán bộ, công nhân viên chức. Nhiều đơn vị sản xuất đã có những tìm tòi, đổi mới, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tiêu biểu là Xí nghiệp in Ba Đình, Điện Cơ, Xí nghiệp Dược phẩm, Gỗ Điện Biên,... Xí nghiệp in Ba Đình đã có nhiều đổi mới máy móc, trang thiết bị, Đảng ủy, Ban Giám đốc, Công đoàn Xí nghiệp đẩy mạnh phong trào thi đua phát huy sáng kiến, cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất. Nhờ đó, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, được khách hàng tín nhiệm.
Trên cơ sở Nghị quyết 07-NQ/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về "Phát triển sản xuất tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp", Ban Chấp hành Đảng bộ Thị xã đã cụ thể hóa và ra Nghị quyết 01 NQ/TU ngày 5-1-1984 về "Củng cố và phát triển sản xuất tiểu, thủ công nghiệp" trên địa bàn Thị xã, trong đó nhấn mạnh: "Việc củng cố hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa gắn liền với mở mang ngành nghề để phát triển sản xuất tiểu, thủ công nghiệp và giải quyết việc làm cho người lao động. Đây là nhiệm vụ vừa cấp bách vừa trung tâm cơ bản lâu dài..."[4]. Mặc dù có nhiều khó khăn về năng lượng, chính sách, giá cả, số đông hợp tác xã đều duy trì sản xuất.
Điểm nổi bật ở các phường, xã là bắt đầu tổ chức lại sản xuất thủ công nghiệp. Phường Ngọc Trạo thành lập Ban Kinh tế của phường và thành lập hợp tác xã "20-8"; 8 phường, xã có hợp tác xã liên ngành, 7 phường, xã tổ chức được dạy nghề cho 360 lao động và làm mây, tre, cói xuất khẩu, một số trường phổ thông đã dạy nghề mây tre xuất khẩu cho học sinh.
Thị ủy chỉ đạo các ngành phát triển gần 50 mặt hàng mới phục vụ cho tiêu dùng và xuất khẩu, trong đó năm 1985 có 17 mặt hàng có giá trị như rút thép, đóng mới xà lan, săm lốp xe đạp, mạ, vải giả da, thảm đay, găng tay xuất khẩu... Nhiều đơn vị đã có biện pháp ngăn chặn được tình trạng sa sút, yếu kém kéo dài trong sản xuất, bước đầu củng cố và tiến lên như các hợp tác xã Đoan Hùng, Tiến Lập, Tân Hưng. Có những hợp tác xã, như: Toàn Thành, Nam Kỳ 40, Sao Đỏ... đã năng động mở rộng liên kết, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm đem lại hiệu quả sản xuất ngày một cao.
Trong 3 năm, ngành đã đầu tư 1,3 triệu đồng mua sắm trang thiết bị sản xuất, thu hút trở lại 1.600 người lao động. Tính chung, giá trị tổng sản lượng của ngành tăng bình quân hàng năm là 8%.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để phát triển, đảm bảo duy trì sản xuất và đời sống cho người lao động, nhưng công suất ở các xí nghiệp quốc doanh, hợp tác xã mới chỉ đạt 40-50%, giữa quốc doanh và hợp tác xã chưa có sự liên kết chặt chẽ để hỗ trợ và phát huy năng lực, thiết bị kỹ thuật, tận dụng tay nghề. Trong quan hệ sản xuất, nhiều đơn vị chưa được củng cố, hoàn thiện, quản lý lỏng lẻo, định mức tùy tiện, hạch toán hình thức. Do vậy, hiệu quả kinh tế thấp, tốc độ phát triển tiểu - thủ công nghiệp còn chậm so với tiềm năng của Thị xã.
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thị xã lần thứ XII, nhiệm kỳ 1983-1985, đề ra mục tiêu giá trị tổng sản lượng đạt 200 triệu đồng trong năm 1985, nhưng mới đạt 79%. Trong cơ cấu kinh tế Thị xã, tỷ trọng giá trị tổng sản lượng sản xuất công nghiệp và tiểu, thủ công nghiệp giảm dần
Chỉ tiêu | 1980 | 1981 | 1982 | 1984 | 1985 |
Tổng số | 100% | 100% | 100% | 100% | 100% |
Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp | 87,87% | 83,01% | 76,98% | 84% | 79,5% |
Nông nghiệp | 8,29% | 12,78% | 13,34% | 16% | 20,5% |
Vận tải | 3,84% | 4,21% | 9,18% |
Trong sản xuất nông nghiệp, qua 2 năm thực hiện "khoán 100", Thị ủy, Ủy ban nhân dân Thị xã đã tổ chức sơ kết rút kinh nghiệm. Qua kinh nghiệm thực tế các hợp tác xã, Thường vụ Thị ủy đã đánh giá: "Một số kết quả đạt được trong thời gian qua đã làm cho lực lượng sản xuất phát triển theo hướng đi lên, nhất là làm nghĩa vụ lương thực và ổn định đời sống". Tuy thế, "khoán 100" lúc này đã bộc lộ những nhược điểm vì chưa thoát khỏi cơ chế quản lý cũ trong nông nghiệp, hợp tác xã nông nghiệp vẫn bị ràng buộc trong cơ chế tập trung quan liêu. Số lớn hợp tác xã chưa chăm lo tổ chức, chỉ đạo các đội chuyên. Nhiều hộ xã viên không đạt sản lượng khoán, không giao đủ sản phẩm cho các hợp tác xã, nợ dây dưa kéo dài lên tới 250 tấn lương thực. Kinh tế các hộ gia đình rất khó khăn, chưa được tập thể quan tâm đúng mức. Nhiều cán bộ, đảng viên ít chú ý đến nhiệm vụ được giao, chỉ lo sản xuất khoán,v.v... Do vậy, đã hàng năm có hàng chục héc ta ruộng không giao được cho người lao động, xã viên trả lại ruộng khoán,... Số hợp tác xã thực hiện "khoán trắng" tăng lên, v.v...
Thực hiện Chỉ thị 01 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về "Sửa chữa những lệch lạc trong thi hành Chỉ thị 100", Ban Thường vụ Thị ủy đã kịp thời triển khai tới mọi cán bộ, đảng viên, xã viên các hợp tác xã nông nghiệp. Đồng thời, đề ra chủ trương, biện pháp tiếp tục thi hành Chỉ thị 100, Chỉ thị 01 và Nghị quyết 154/NQ-HĐBT về hoàn chỉnh khoán mới trong sản xuất nông nghiệp. Ban Thường vụ Thị ủy nhấn mạnh: "Tiếp tục sửa chữa những lệch lạc trong khoán sản phẩm một cách nghiêm túc, triệt để, yêu cầu các cấp ủy Đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên nắm vững đầy đủ nội dung, yêu cầu của Chỉ thị 100 CT/TW và có biện pháp sửa ngay trong vụ mùa 1984 những vấn đề mà Chỉ thị 01-CT/TU đã đề ra, trên cơ sở đó phấn đấu đạt mục tiêu 7.800 tấn lương thực; 370 tấn rau, 375 tấn thịt lợn hơi năm 1984 và mục tiêu năm 1985 mà Đại hội Đảng bộ Thị xã lần thứ XII đề ra"[5].
Để tiếp tục chỉ đạo cải tiến cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp, khắc phục những hạn chế trong thực hiện khoán trong nông nghiệp, Ủy ban nhân dân Thị xã tổ chức một số đoàn cán bộ hợp tác xã đi tham quan học tập các điển hình tiên tiến ở hợp tác xã Xuân Thành (Thọ Xuân), Hải Hậu (Nam Định). Cùng với chấn chỉnh công tác khoán, tăng cường trao đổi kinh nghiệm, Thị ủy, Ủy ban nhân dân Thị xã chỉ đạo ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp-dịch vụ, xây dựng kế hoạch cung cấp các loại vật tư cho nông nghiệp.
Phong trào làm thủy lợi trong các xã, hợp tác xã diễn ra sôi nổi. Nhờ hệ thống thủy lợi được tăng cường, nên diện tích canh tác được chủ động nước tưới tăng từ 2.300 ha lên 2.500 ha; diện tích tiêu nước từ 3.173 ha lên 3.523 ha.
Các hợp tác xã tăng cường áp dụng tiến bộ về cơ cấu giống mới và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật thâm canh, mang lại hiệu quả sản xuất cao hơn.
Nhờ có những biện pháp đồng bộ nên những năm 1983-1985, diện tích, năng suất và sản lượng lương thực đều tăng: Bình quân hàng năm năng suất đạt 60 tạ/ha, tổng sản lượng lương thực đạt 7.559 tấn, huy động lương thực cho Nhà nước 2.494 tấn. So với bình quân 3 năm trước đó, tăng 41% về năng suất; 38% về sản lượng và 43% về huy động lương thực[6].
Sản lượng nông nghiệp phát triển, thúc đẩy ngành chăn nuôi phát triển. Cuối năm 1984, Thị xã xây dựng xong Trại gà Đông Thọ; tổng đàn trâu đạt 984 con; đàn lợn 9.732 con; dện tích nuôi cá lên tới 141,2ha.
Năm 1985 là năm kết thúc thực hiện kế hoạch 5 năm 1981-1985, là năm cuối thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thị xã lần thứ XII. Do đó, nhiệm vụ, kế hoạch năm 1985 được các cấp ủy, chính quyền phấn đấu với mức cao nhất để thực hiện bằng được những mục tiêu kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh. Từ ngày 7 đến ngày 9-1-1985, Ban Chấp hành Đảng bộ Thị xã tổ chức Hội nghị mở rộng và ra Nghị quyết về phương hướng, nhiệm vụ năm 1985, khẳng định: "Mở rộng liên kết kinh tế với các huyện, thị trong và ngoài tỉnh, với các xí nghiệp quốc doanh. Tranh thủ sự hỗ trợ của các ngành cấp tỉnh, khai thác mạnh mẽ nguồn nguyên liệu địa phương để đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng, xuất khẩu và dịch vụ mà đi lên". Đồng thời, Nghị quyết chỉ ra những biện pháp thực hiện, trong đó, nhấn mạnh đến việc thực hiện 4 chế độ[7] cho cán bộ, đảng viên, các ban chuyên môn của Thị ủy, Ủy ban nhân dân, các ngành, đoàn thể trong toàn Thị xã.
Thực hiện các chủ trương, biện pháp kịp thời của Thị ủy, cán bộ, đảng viên và nhân dân Thị xã từng bước vượt qua những khó khăn chung của đất nước, chiến tranh phá hoại nhiều mặt của kẻ thù, cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, những thử thách do thiên tai gây ra để giành thắng lợi, góp phần vào thắng lợi chung của nhân dân toàn tỉnh trong thực hiện Kế hoạch 5 năm lần thứ ba.
Đến năm 1985, ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp đã tập trung duy trì, đẩy mạnh sản xuất. Giá trị tổng sản lượng của ngành tăng 8%.
Phân phối lưu thông có tiến bộ trong khâu thu mua, khai thác nguồn hàng, mở rộng mạng lưới bán hàng và cung ứng vật tư cho sản xuất. Năm 1985, doanh số mua vào đạt 315 triệu đồng, doanh số bán ra đạt 2.016 triệu đồng, so với năm 1982 tăng 6 lần.
Ngành giao thông vận tải có nhiều chuyển biến theo hướng tích cực: đóng mới 1.220 tấn phương tiện vận tải thủy và 300 tấn phương tiện vận tải bộ. Bình quân hàng năm thực hiện vận chuyển 230.000 tấn hàng; thực hiện vận chuyển 18 triệu tấn/km hàng hóa phục vụ sản xuất. Đồng thời, phát triển được 1.857 tấn phương tiện cơ giới, thu hút thêm 270 lao động vào ngành.
Trong công tác tài chính, ngân sách, đã xây dựng được ngân sách địa phương, cân đối thu chi, hướng việc chi vào mục tiêu phát triển sản xuất. Ngành ngân hàng đã có những chuyển biến trong hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng, thanh toán,...
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa V về giá, lương tiền, thực hiện kế hoạch của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Thị ủy đã chỉ đạo hoàn thành công tác đổi tiền vào ngày 14-9-1985, bảo đảm chu đáo, bí mật, khẩn trương, thuận lợi theo đúng quy định trên địa bàn Thị xã.
Để góp phần giải quyết những khó khăn về nguồn vốn đầu tư phát triển sản xuất, những năm 1983-1985, công tác vận động quần chúng nhân dân gửi tiền tiết kiệm đã trở thành phong trào trên địa bàn Thị xã và toàn tỉnh Thanh Hóa. Dưới sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, mạng lưới tín dụng cơ sở được mở rộng; Ban vận động gửi tiền tiết kiệm của Thị xã và các xã, phường được thành lập. Đông đảo nhân dân tham gia gửi tiền tiết kiệm dưới hình thức gửi vào “Quỹ bảo thọ”, “Bán thóc gửi tiền tiết kiệm”. Năm 1984, Thị xã là đơn vị dẫn đầu toàn tỉnh về số dư gửi tiền tiết kiệm, đạt 65,7 triệu đồng.
Xây dựng Thị xã theo quy hoạch đô thị được Đại hội lần thứ XII đặt ra là một trong những nhiệm vụ chính của Thị xã. Qua 3 năm (1983-1985), Thị xã được Trung ương và tỉnh đầu tư mở rộng Quốc lộ 1A đoạn chạy qua Thị xã, nối đường Lê Lợi tới PhườngLam Sơn, mở một số đường liên hương ở các xã Đông Vệ, Đông Thọ, Đông Hải. Chủ động khắc phục khó khăn, đầu tư xây dựng và đưa vào sử dụng cầu Quảng Thắng, cầu Đông Vệ, đường vào Xí nghiệp Gốm và xã Đông Hương. Xây dựng hệ thống cống rãnh thoát nước; cải tạo, xây dựng mạng lưới điện; hoàn thành xây dựng Nghĩa trang liệt sĩ.
Đến cuối năm 1985, Thị xã đã san lấp 1,6 ha đất, hình thành hai khu dân cư mới: Nam Cầu Sâng thuộc phường Nam Ngạn và Nam Cầu Bố thuộc phường Đông Vệ; phân chia 731 lô đất ở cho cán bộ và nhân dân, xây dựng một số cơ sở kinh tế mới, như: Công ty Vật tư và Xí nghiệp Than tổ ong, tiến hành lát vỉa hè phường Ba Đình, Điện Biên, Ngọc Trạo, v.v...
Mặc dù đời sống kinh tế còn khó khăn, nhưng sự nghiệp giáo dục của Thị xã luôn được quan tâm phát triển.
Đến năm học 1985-1986, Thị xã đầu tư xây dựng thêm 1.600m2 nhà trẻ, phòng học, đóng mới 1.800 bộ bàn ghế học sinh; toàn Thị xã có 18 trường phổ thông cơ sở với 585 lớp gồm 24.482 học sinh, tăng 40 lớp so với năm 1980; giảm số lớp học ca 3 từ 60 lớp năm học 1982-1983, còn 15 lớp năm học 1985-1986. Thực hiện cải cách hệ thống giáo dục phổ thông từ 10 năm thành 12 năm đạt kế hoạch. Chất lượng dạy và học ở nhà trẻ, mẫu giáo, trường phổ thông đều tăng. Toàn Thị xã có 8.000 cháu vào nhà trẻ, mẫu giáo; 28.500 học sinh phổ thông; 1.500 học viên bổ túc. Bình quân, cứ 3 người dân có 1 người đi học.
Hàng năm số học sinh lên lớp, chuyển cấp, vào đại học và đạt giải trong các kỳ thi học sinh giỏi đều cao. Năm 1984, em Ngô Thúc Anh đạt giải ba môn Toán quốc tế, là học sinh đạt giải Toán quốc tế đầu tiên của tỉnh Thanh Hóa.
Công tác y tế có những chuyển biến tích cực. Thị xã đầu tư xây dựng thêm 5 trạm xá xã, phường, mở rộng Bệnh viện Thị xã. Tăng cường đầu tư mua sắm thêm phương tiện y tế và thuốc chữa bệnh nhằm đảm bảo sức khỏe cho nhân dân, làm tốt việc phòng chống dịch bệnh.
Sự nghiệp văn hóa - thông tin tiếp tục phát triển. Phong trào xây dựng nếp sống mới gia đình văn hóa, tập thể văn minh được các phường, xã hưởng ứng sôi nổi. Hàng năm có 30 - 35% gia đình và tập thể đạt các danh hiệu văn hóa. Những năm 1981-1983, tiểu khu Hoàng Hoa Thám trở thành một trong những điển hình tiên tiến về phong trào thi đua thực hiện nếp sống văn hóa, xây dựng gia đình văn hóa. Năm 1983, Thị xã là một trong 10 đơn vị cấp huyện dẫn đầu tỉnh về phong trào này. Đến năm 1985-1986 đã hoàn thành xây dựng hệ thống truyền thanh Thị xã. Thư viện Thị xã và 20 tủ sách cơ sở, với tổng số 51.980 bản sách các loại phục vụ bạn đọc hàng năm. Phong trào thể dục thể thao phát triển mạnh. Năm 1985, Thị xã đã tổ chức thành công Đại hội thể dục thể thao toàn Thị xã lần thứ nhất.
Trong những năm 1981-1985, công tác an ninh-quốc phòng và đấu tranh chống tiêu cực được các cấp ủy, chính quyền địa phương xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm.
Công an Thị xã đã phối hợp với lực lượng quân đội thực hiện Nghị quyết số 31/NQ-TW, ngày 2-12-1980 của Bộ Chính trị Về công tác bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trong tình hình mới và Nghị quyết số 14/N Q-TU, ngày 10-2-1981 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Về nhiệm vụ an ninh-quốc phòng trong tình hình mới, với các hoạt động nổi bật: tăng cường giáo dục cho cán bộ, đảng viên các lực lượng vũ trang và nhân dân nhận thức sâu sắc quan điểm xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân trong tình hình mới là đặc biệt quan trọng; nhận rõ âm mưu thâm độc của địch và tính chất nguy hiểm của các loại tội phạm; phát động phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc ở địa bàn phường và các cơ quan, xí nghiệp, địa bàn xung yếu; tổ chức tập huấn công tác vận động quần chúng cho các đồng chí Trưởng, Phó công an phường, công an viên và bảo vệ cơ quan, xí nghiệp; xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố quốc phòng; tăng cường khả năng phòng thủ và khả năng chiến đấu; quan tâm củng cố các cơ sở yếu kém; tăng cường đấu tranh chống chiến tranh tâm lý chiến, chống các luận điệu xuyên tạc, phao tin đồn nhảm của kẻ xấu; tăng cường bảo vệ chính trị nội bộ; đẩy mạnh hoạt động phòng chống tội phạm hình sự; tập trung củng cố xây dựng lực lượng vũ trang, lực lượng công an nhân dân; tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đối với công tác quốc phòng-an ninh.
Từ năm 1984, thực hiện Nghị quyết 03, Nghị quyết 21 của Bộ Chính trị, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ra Nghị quyết 11 và chỉ đạo ngành công an, quân sự tỉnh phối hợp xây dựng phòng tuyến an ninh tại các khu vực trọng yếu. Triển khai kế hoạch, Thị ủy đã chỉ đạo phổi hợp xây dựng phòng tuyến an ninh ở các phường có cơ sở kinh tế và quốc phòng quan trong. Các phường thành lập Ban Chỉ đạo do đồng chí Bí thư Đảng ủy làm Trưởng ban. Tổ chức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân học tập, nắm vững mục đích, ý nghĩa và nội dung của công tác xây dựng phòng tuyến an ninh; kịp thời đấu tranh ngăn ngừa các luận điệu phản động, tâm lý chiến của địch, phao tin đồn nhảm, mê tín dị đoan, phát tán băng đĩa có nội dung phản động, đồi trụy; thành lập các đội thanh niên an ninh-quốc phòng; đưa đối tượng hình sự ra kiểm điểm, giáo dục trước nhân dân; lập hồ sơ đưa đi cải tạo một số đối tượng, làm trong sạch địa bàn.
Tổng kiểm tra hộ khẩu là một trong những công tác trọng tâm của quản lý Nhà nước về an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Năm 1984, kế hoạch tổng kiểm tra được triển khai xuống tận cán bộ chủ chốt trong tổ chức Đảng, chính quyền các phường, cơ quan, xí nghiệp. Các đơn vị đã lập hồ sơ, lập bản khai nhân khẩu; thông qua đó, phục vụ có hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, giúp cho lực lượng công an và chính quyền chấn chỉnh những sơ hở trong công tác quản lý nhân khẩu, hộ khẩu.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, hàng năm Ban Thường vụ Thị ủy đều có nghị quyết để triển khai thực hiện nhiệm vụ quốc phòng-an ninh.
Toàn hệ thống chính trị của Thị xã đã tổ chức thực hiện có kết quả công tác phòng, chống chiến tranh phá hoại nhiều mặt, gắn liền với chống tiêu cực, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, luôn luôn sẵn sàng chiến đấu đập tan âm mưu xâm lược của địch. Ngày 28-9-1984, Ban Thường vụ Thị ủy đã tổ chức hội nghị kiểm điểm việc thực hiện nhiệm vụ quốc phòng-an ninh từ năm 1976 và đề ra nhiệm vụ năm 1985. Trong đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, đội ngũ Công an được xây dựng từ Thị đến cơ sở làm nòng cốt phát động phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc. Việc nắm tình hình biến động nhân khẩu, hộ khẩu trên địa bàn được quan tâm, đã hoàn thành cơ bản công tác quản lý bằng hồ sơ. Việc quản lý và cải tạo tội phạm có hiệu quả.
Về công tác quân sự địa phương, đã củng cố lực lượng dân quân tự vệ rộng khắp. Cuối năm 1984, toàn Thị xã có 131/198 đơn vị với 23.917 người tham gia làm nòng cốt trong bảo vệ sản xuất và bảo vệ cơ sở. Hằng năm, Thị xã luôn hoàn thành 100% chỉ tiêu tuyển quân. Đến năm 1985, 20 năm liền Thị xã hoàn thành nhiệm vụ tuyển quân và gọi thanh niên nhập ngũ; thực hiện chính sách hậu phương quân đội được xếp loại khá.
Về xây dựng hệ thống chính trị, Đảng bộ đã lãnh đạo tổ chức thành công các cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, góp phần xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Từ sau Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ XII, Thị ủy đã lãnh đạo, chỉ đạo củng cố, kiện toàn một bước tổ chức bộ máy chính quyền Thị xã và các phường, xã. Đặc biệt, sau bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân hai cấp (tháng 5-1984), tổ chức bộ máy chính quyền được kiện toàn, vừa nâng cao chất lượng hoạt động, vừa thực hiện trẻ hóa đội ngũ cán bộ. Các cơ quan chuyên môn của chính quyền được củng cố, tăng thêm cán bộ; trẻ hóa một bước về tuổi đời, nâng cao trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật trong cơ cấu đội ngũ cán bộ, nhằm nâng cao hiệu lực điều hành của chính quyền các cấp.
Các tổ chức đoàn thể, chính trị - xã hội được củng cố và tăng cường.
Tháng 5-1983, sau khi Trung ương Đoàn phát động phong trào “Theo bước chân những người anh hùng”, thế hệ trẻ Thị xã đã sôi nổi hưởng ứng; tổ chức các đoàn tham quan di tích lịch sử cách mạng và văn hóa; tổ chức thi tìm hiểu về Cách mạng Tháng Mười Nga (1917), về Cách mạng Tháng Tám 1945, Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, Chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy xuân 1975; tổ chức học tập về Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại… Phong trào “hành quân theo bước chân những người anh hùng” được triển khai sâu rộng với các nội dung: Học tập phẩm chất đạo đức của Bác Hồ; Học tập và phát huy truyền thống kiên cường, bất khuất của các anh hùng liệt sĩ; Nâng cao cảnh giác cách mạng, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, rèn luyện thân thể bảo vệ Tổ quốc; Củng cố tổ chức Đoàn vững mạnh. Nhiều công trình thanh niên có ý nghĩa lớn về kinh tế-xã hội được đoàn viên thanh niên Thị xã đảm nhiệm…
Công đoàn, Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Mặt trận Tổ quốc làm nòng cốt trong tổ chức thực hiện các phong trào như tiết kiệm, huy động lương thực, an ninh-quốc phòng, quỹ bảo thọ, v.v...
Đáng chú ý, thực hiện Nghị quyết 15 của Bộ Chính trị, Nghị quyết của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về phát hành công trái xây dựng Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội đã vận động cán bộ, đảng viên và nhân dân Thị xã tích cực tham gia mua công trái, thể hiện rõ trách nhiệm và nghĩa vụ đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hưởng ứng lời kêu gọi của Mặt trận Tổ quốc tỉnh, trải qua 3 đợt mua công trái (đợt 1 từ tháng 12/1983 đến tháng 5/1985; đợt 2 từ 30/6/1984 đến 15/1/1985; đợt 3 từ 25/8/1985 đến tháng 9/1985), Thị xã đạt và vượt chỉ tiêu trên giao.
Qua các phong trào, tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với quần chúng, giúp các cấp ủy Đảng cơ sở tháo gỡ những khó khăn ở từng đơn vị, địa phương.
Giữ vững vai trò hạt nhân lãnh đạo trong hệ thống chính trị, trong bối cảnh tình hình trong nước còn nhiều khó khăn, Thị ủy đã chú trọng công tác xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IX và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thị xã lần thứ XII, Đảng bộ Thị xã quan tâm công tác tư tưởng chính trị, giúp cán bộ, đảng viên vững vàng trước khó khăn, phát huy truyền thống cách mạng, tin tưởng vào đường lối của Đảng; kiên quyết trong đấu tranh chống các âm mưu, thủ đoạn của địch; phòng chống tiêu cực.
Trước những khó khăn về sản xuất và đời sống, kinh tế-xã hội dần lâm vào khủng hoảng, hiện tượng tiêu cực diễn biến phức tạp, có mặt nghiêm trọng, Đảng bộ Thị xã đã quán triệt và thực hiện tốt Nghị quyết số 15/NQ-TU, ngày 29-6-1981 của Tỉnh ủy về “Tình hình và nhiệm vụ công tác tư tưởng, công tác tổ chức”, với mục tiêu tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về tình hình kinh tế, tạo điều kiện thực hiện thắng lợi kế hoạch 5 năm lần thứ 3, trước mắt là đẩy mạnh sản xuất , ổn định đời sống nhân dân.
Đảng bộ luôn quan tâm xây dựng khối đoàn kết nhất trí trong Đảng và quần chúng, tinh thần làm chủ tập thể của nhân dân; tính tiền phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên; tinh thần cảnh giác cách mạng, chống biểu hiện dao động, bi quan, hoài nghi, tự do vô kỷ luật, chia rẽ, bè phái, tham ô, hối lộ, ức hiếp quần chúng; khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, xa rời thực tế. Trong công tác tổ chức-cán bộ, quan tâm củng cố tổ chức cơ sở đảng; chú ý xây dựng quy chế và lề lối làm việc theo nguyên tắc “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân lao động làm chủ”, bố trí cán bộ hợp lý hơn; kiện toàn một bước các ban tham mưu của cấp ủy, chính quyền; tiếp tục hoàn chỉnh quy hoạch cán bộ; quan tâm công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,...
Công tác củng cố tổ chức cơ sở đảng được quan tâm. Đến năm 1982, 100% phường, xã, hợp tác xã, Trường cấp III xây dựng được Đảng bộ, chi bộ.
Nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, Thị ủy quan tâm công tác giáo dục lý luận chính trị. Trường Đảng Thị xã tăng cường bồi dưỡng cán bộ, đảng viên theo chương trình trung cấp, sơ cấp. Chất lượng cán bộ cấp ủy được nâng lên: Cán bộ các ban của Thị ủy đến năm 1982 có 55,8% trình độ văn hóa cấp III; trung học chuyên nghiệp 21,4%; đại học 26,8%; trung cao cấp lý luận đạt 55,2%. Ở cấp phường, xã, trình độ văn hóa cấp II đạt 80%, trung cấp đạt 9%; trung, sơ cấp lý luận đạt 62,5%.
Trong 3 năm 1983-1985, toàn Đảng bộ tiến hành hai đợt tự phê bình và phê bình theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa VI) và Chỉ thị 17-CT/TU của Tỉnh ủy. Đồng thời, mở lớp bồi dưỡng đảng viên mới, lý luận sơ cấp cho 828 đảng viên, lý luận trung cấp cho 177 đảng viên; cử đi học các lớp đào tạo, bồi dưỡng khác nhau ở trường Tỉnh và Trung ương 9 đảng viên.
Công tác phát triển Đảng ở các Đảng bộ và chi bộ cơ sở được quan tâm. Trong ba năm 1983-1985, ở 101 cơ sở Đảng đã bồi dưỡng, kết nạp 677 đảng viên mới.
Công tác kiểm tra, kỷ luật đảng được thực hiện nghiêm túc, đúng Điều lệ. Qua công tác kiểm tra, kỷ luật đảng, Đảng bộ đã thi hành kỷ luật 595 cán bộ, đảng viên với các hình thức kỷ luật khác nhau, trong đó đưa 253 người không đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng.
Công tác cán bộ được xác định là một khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XII, từ năm 1984, các cấp ủy bước đầu đổi mới một số khâu: tăng cường, bố trí sắp xếp cán bộ, trên cơ sở đúng việc, đúng người, nhất là trong đội ngũ cán bộ chủ chốt của bộ máy chính quyền. Thị ủy và cấp ủy cơ sở chú ý bồi dưỡng đội ngũ cán bộ kế cận, trong đó coi trọng việc đào tạo, bồi dưỡng có hệ thống qua trường, lớp khác nhau ở Tỉnh và Trung ương. Đồng thời, phát huy chức năng tham mưu của các ban, ngành; củng cố một bước trường Đảng Thị xã.
Qua phân loại từng năm và nhiệm kỳ XII, có 98,5% đảng viên đủ tư cách, trong đó tỷ lệ đảng viên xuất sắc chiếm 24,7%. Tỷ lệ Đảng bộ trong sạch vững mạnh tăng từ 11,6% năm 1982 lên 12,7% năm 1985.
Tháng 8-1985, Đảng và Nhà nước chủ trương tổng điều chỉnh giá - lương - tiền, sau đó tiến hành đổi tiền (9-1985). Cuộc tổng điều chỉnh giá-lương-tiền không đạt kết quả như mong muốn, làm gay gắt thêm tình hình kinh tế-xã hội, tác động tiêu cực tới đời sống nhân dân. Nạn lạm phát đã làm giá cả tăng vọt, chênh lệch cung và cầu quá lớn. Đời sống cán bộ, công nhân viên chức và nhân dân hết sức khó khăn.
Trước tình hình đó, thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy và của Trung ương, Thị ủy, Ủy ban nhân dân Thị xã đã lập phương án tổ chức sắp xếp lại thị trường nhằm mở rộng thị trường có tổ chức, thu hẹp thị trường tự do, đẩy mạnh công tác lãnh đạo, chỉ đạo quản lý thị trường để ổn định giá cả trên địa bàn; trực tiếp chỉ đạo kịp thời uốn nắn các lệch lạc xảy ra.
Sản xuất trì trệ, khủng hoảng kinh tế-xã hội gia tăng đã đặt ra những yêu cầu bức thiết về việc phải dứt khoát xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp[8]. Vấn đề đổi mới để thoát khỏi khủng hoảng, khó khăn trở thành một đòi hỏi tất yếu của cách mạng nước ta, của toàn Đảng, toàn dân, trong đó có các Đảng bộ địa phương.
*
* *
Với Đảng bộ và nhân dân Thị xã, trong suốt chặng đường 10 năm cùng cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội (1975-1985), mặc dù gặp những khó khăn hết sức gay gắt, Đảng bộ và nhân dân Thị xã đã có nhiều cố gắng phấn đấu vượt qua gian khổ, khó khăn, đạt những thành tích đáng khích lệ. Việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, nhất là về kinh tế, văn hóa, xã hội của Thị xã có bước tiến bộ. Công nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp nói chung được giữ vững và có bước phát triển. Nông nghiệp tăng cả năng suất và sản lượng lương thực. Nghĩa vụ đối với Nhà nước về nhiều mặt đều hoàn thành. Văn hóa - xã hội có tiến bộ. An ninh - quốc phòng được bảo đảm. Các tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể được củng cố.
Như "Lửa thử vàng, gian nan thử sức”, thành tích mà Đảng bộ và nhân dân Thị xã đạt được trong hoàn cảnh vô vàn khó khăn, càng có ý nghĩa hết sức quan trọng củng cố niềm tin, triển vọng đi lên trong gian khó. Mặc dù còn không ít hạn chế, khiếm khuyết, khó khăn, thử thách, nhưng những thành tựu đạt được về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng-an ninh trong thời kỳ 1975-1985 đã giúp Đảng bộ tích lũy thêm được nhiều kinh nghiệm quý, đặc biệt trong lãnh đạo, chỉ đạo lĩnh vực kinh tế-xã hội. Đội ngũ cán bộ, đảng viên được rèn luyện và trưởng thành một bước qua thực tiễn công tác. Đó là những tiền đề, điều kiện rất quan trọng để Đảng bộ Thị xã lãnh đạo các tầng lớp nhân dân bước vào thực hiện đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo.
[1] Đến đầu năm 1981 Thị xã Thanh Hóa có diện tích tự nhiên là 3.677 ha, đất nông nghiệp 1.646 ha, sức kéo 1,7ha/con/vụ.
[2].Quyết định số 551-TC/UBTH ngày 3-7-1981.
[3] Báo cáo của Ban Chấp hành Đảng bộ Thị xã Thanh Hóa tại Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ XII.
[4] Nghị quyết số 01 NQ/TU ngày 5-1-1984 lưu tại Văn phòng Tỉnh ủy.
[5] Báo cáo sơ kết thi hành Chỉ thị 100 CT/TW Ban Bí thư Trung ương Đảng - Chỉ thị 01 CT/TU (10/1981-5/1984)
[6] Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ Thị xã tại Đại hội đại biểu Đảng bộ khóa XIII.
[7] Chế độ trách nhiệm; chế độ kỷ luật lao động, chấp hành nghị quyết, chính sách; chế độ tiết kiệm, bảo vệ của công; chế độ phục vụ nhân dân.
[8] Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Đảng khóa V.
Các tin khác