CHƯƠNG VIII: ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐẨY MẠNH THỰC HIỆN CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ (2001 - 2005)

Ngày 23/10/2014 15:52:29

Lịch sử Đảng bộ Thành phố Thanh Hóa 1945-2020 (Tiếp theo)

I. TẬP TRUNG MỌI NGUỒN LỰC, ĐẨY NHANH TỐC ĐỘ  PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI

1. Xác định rõ phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu của Thành phố sau 15 năm lãnh đạo thực hiện đường lối đổi mới của Đảng

      Đầu thế kỉ XXI, tình hình quốc tế, trong nước và Tỉnh Thanh Hóa có nhiều thời cơ thuận lợi. Tỉnh Thanh Hóa đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả các mặt về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, xây dựng Đảng. Tỉnh có nhiều chủ trương đúng đắn trong việc phát triển kinh tế- xã hội, đặc biệt là chủ trương tập trung phát triển các vùng kinh tế trọng điểm ở các đô thị, trung tâm công nghiệp.

     Sau 15 năm thực hiện công cuộc đổi mới, tiếp tục phát huy những thế mạnh về vị trí địa lý, tài nguyên đất đai, sức lao động và tiềm năng về vốn, khoa học công nghệ, thị trường để phát triển kinh tế-xã hội với tốc độ nhanh hơn, Thành phố Thanh Hóa đã có bước phát triển toàn diện và vững chắc trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa- xã hội, quốc phòng- an ninh, đời sống nhân dân không ngừng được nâng lên, cơ sở hạ tầng đô thị được đầu tư xây dựng, bộ mặt đô thị ngày càng khang trang.

     Thực hiện Chỉ thị số 54-CT/TW, ngày 22-5- 2000 của Bộ Chính trị về việc tiến hành đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, những tháng cuối năm 2000, các cơ quan, đơn vị, cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân Thành phố Thanh Hóa đã hăng hái thi đua lao động, sản xuất lập nhiều thành tích suất sắc chào mừng đại hội đảng các cấp cấp, tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX.

     Sau khi hoàn thành Đại hội Đảng bộ, chi bộ cơ sở, từ ngày 11 đến ngày 13 tháng 12 năm 2000, Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2001-2005, được tổ chức trọng thể. Dự đại hội có 180 đại biểu, thay mặt cho hơn mười ngàn đảng viên sinh hoạt tại 103 đảng bộ, chi bộ cơ sở. Đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ Thanh Hóa tới dự và chỉ đạo Đại hội.

     Đánh giá những kết quả đạt được trong 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XVI, Đại hội khẳng định Đảng bộ và nhân dân Thành phố đạt được những thành tựu quan trọng: Giữ vững sự ổn định chính trị trên địa bàn, công cuộc đổi mới được đẩy mạnh, kinh tế tiếp tục phát triển và có bước tăng trưởng khá. Sức hút của đô thị tỉnh lỵ đã tăng lên. Cơ sở hạ tầng kĩ thuật đô thị được tập trung đầu tư và có bước phát triển vượt bậc. Các lĩnh vực văn hóa- xã hội có tiến bộ và ngày càng được xã hội hóa, trình độ dân trí nâng lên, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Trật tự an toàn xã hội cơ bản bảo đảm, vai trò của hệ thống chính trị được củng cố và phát huy tốt hơn. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng được phát huy.

     Đại hội chỉ ra những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân của những khuyết điểm, yếu kém, trên cơ sở đó rút ra một số bài học kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo của Đảng bộ Thành phố:

     Một là, quan tâm làm tốt công tác tư tưởng, đặc biệt phải ổn định tư tưởng nội bộ. Chú trọng thông tin có định hướng đến cán bộ, đảng viên và nhân dân để nâng cao nhận thức, tạo sự thống nhất tư tưởng và hành động. Đồng thời quan tâm thực hiện dân chủ nội bộ, phát hiện và xử lí kịp thời những vấn đề nảy sinh. Xây dựng sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng, trong lãnh đạo ngày càng cao, giữ vững ổn định chính trị.

     Hai là, phải xác định đúng vai trò, vị trí của một đô thị trung tâm đầu não của tỉnh. Thực sự đổi mới phương thức lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của cấp ủy, chính quyền các cấp. Nhận thức đúng đắn, đầy đủ chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào tình hình thực tế của Thành phố. Quá trình tổ chức chỉ đạo thực hiện phải đồng bộ và kiên quyết; bám sát từng mục tiêu và kiên trì lãnh đạo thực hiện. Có sự phân công, phân nhiệm rõ ràng đối với tập thể và cá nhân. Thường xuyên kiểm tra, đôn đốc và đánh giá, động viên cán bộ, đảng viên kịp thời.

     Ba là, luôn coi trọng công tác cán bộ, xác định cán bộ là khâu trọng yếu nhất. Quan tâm đồng bộ công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và xem xét, đánh giá, sử dụng cán bộ. Thực hiện tốt việc luân chuyển, tiêu chuẩn hóa, trẻ hóa cán bộ và chính sách cán bộ, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, kiên quyết thay thế những cán bộ năng lực yếu kém, thiếu trách nhiệm. Phải thực sự xuất phát từ đòi hỏi của công việc để bố trí cán bộ, vì sự nghiệp chung, vì sự phát triển của địa phương, đơn vị và phải thực sự khách quan thì mới lựa chọn, xây dựng được đội ngũ cán bộ tốt.

     Bốn là, quan tâm chăm lo bảo đảm lợi ích chính đáng và hợp pháp của quần chúng nhân dân. Động viên và phát huy truyền thống cách mạng của địa phương, tổ chức tập hợp và phát động quần chúng tham gia các phong trào, đồng thời có các cơ chế, chính sách khuyến khích để khai thác được tiềm năng to lớn trong nhân dân, nhằm thực hiện thành công chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.

     Năm là, tranh thủ sự lãnh đạo, đồng tình ủng hộ, giúp đỡ của cấp trên, của các ngành, của bạn bè đối với Thành phố, coi đó là cơ sở quan trọng để thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế -xã hội của địa phương.

Trên cơ sở phân tích sâu sắc ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm, hướng tới kỷ niệm 200 năm đô thị tỉnh lỵ, 10 năm thành lập Thành phố, Đại hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu trong nhiệm kỳ 2001-2005: “Phát huy cao độ truyền thống, những tiềm năng về vốn, lao động, trí tuệ và khoa học kĩ thuật; tiếp tục đổi mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tập trung đầu tư phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng, tăng cường quản lý đô thị, tiến hành có trọng tâm, trọng điểm và có hiệu quả. Từng bước giải quyết tốt các vấn đề bức xúc về văn hóa- xã hội, trọng tâm là xây dựng nền văn hóa mới, giải quyết việc làm và tệ nạn xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Củng cố quốc phòng-an ninh, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo trật tự- an toàn xã hội. Tiếp tục thực hiện xây dựng chỉnh đốn Đảng, đẩy mạnh và thực hiện có hiệu quả quy chế dân chủ ở cơ sở, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Phấn đấu năm 2001, Đảng bộ Thành phố đạt và giữ danh hiệu “Đảng bộ trong sạch, vững mạnh”; đến năm 2005, Thành phố được nâng cấp lên đô thị loại 2”.

     Đại hội xác định rõ những mục tiêu cụ thể trên các lĩnh vực.

     Về kinh tế: Phấn đấu tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân hàng năm đạt 15- 16%; GDP bình quân đầu người đến năm 2005 đạt 1000 USD trở lên. Cơ cấu kinh tế: Công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp có tỉ trọng: 38% - 57% - 5%; tốc độ phát triển bình quân hàng năm của các ngành kinh tế chủ yếu: công nghiệp: 14-15%, dịch vụ: 12-13%; nông nghiệp: 5-6%. Tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn đạt 400 tỉ đồng/năm; hoàn thành một số dự án lớn như: Dự án cấp nước Thanh Hóa - Sầm Sơn; cải tạo mạng lưới điện, cải tạo hệ thống thoát nước bằng vốn ODA; bãi chứa và xử lí rác thải, dự án cải tạo và nâng cấp kênh Vinh, kênh Nhà Lê; cơ sở hạ tầng khu văn hóa - du lịch Hàm Rồng và xây dựng một số khu chung cư, khu dân cư mới.

      Về văn hóa- xã hội: Duy trì phổ cập tiểu học đúng độ tuổi, sớm hoàn thành phổ cập trung học cơ sở, từng bước tiến hành phổ cập trung học phổ thôngTỉ lệ lao động được đào tạo đến năm 2005 đạt 45% trở lênTiếp tục hạ tỉ lệ phát triển dân số tự nhiên dưới mức 0,8%. Tốc độ đô thị hóa bình quân hằng năm đạt 5% trở lên. Giảm tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng xuống dưới 15%. Đến năm 2005, giảm tỉ lệ hộ nghèo còn dưới 2%, lao động thất nghiệp còn dưới 4%. Đến năm 2005, tỉ lệ gia đình văn hóa đạt 80% trở lên; 70% trở lên khu phố, làng khai trương xây dựng đơn vị văn hóa; phấn đấu 60-70% số cơ quan văn hóa

      Về xây dựng Đảng: Trung bình hằng năm 80% trở lên số đảng bộ, chi bộ cơ sở đạt danh hiệu trong sạch vững mạnh. Xây dựng hệ thống chính quyền và các đoàn thể vững mạnh.

Đại hội bầu Ban Chấp hành khóa XVII, nhiệm kỳ 2001 - 2005, gồm 33 đồng chí. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố bầu Ban Thường vụ gồm 11 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Đức Thắng được bầu làm Bí thư Thành ủy; các đồng chí Nguyễn Văn Ngọc, Bùi Tường Hỷ được bầu làm Phó Bí thư. Đại hội bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XV gồm 22 đại biểu chính thức và 2 đại biểu dự khuyết.

     Đại hội kêu gọi toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân Thành phố phát huy truyền thống 55 xây dựng và trưởng thành của Đảng bộ, kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XVII.

Ngay sau Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XVII, từ ngày 2 đến ngày 5- 1-2001, đã diễn ra Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XV. Phát huy những thành tựu quan trọng bước đầu đạt được, trên cơ sở đánh giá những ưu điểm và hạn chế, khó khăn, căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của địa phương sau 15 năm đổi mới, Đại hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu trong 5 năm 2001-2005: “Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, tăng tốc độ phát triển, phấn đấu đạt và vượt chỉ tiêu trên các lĩnh vực, phát huy nội lực, khai thác có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển, đặc biệt là nguồn nhân lực, ưu tiên đầu tư phát triển các ngành, các lĩnh vực có nhiều tiềm năng, lợi thế của tỉnh, đáp ứng yêu cầu thị trường; tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp, hiện đại hóa, đảm bảo tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao và bền vững; nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh, tích cực chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với giải quyết tốt những vấn đề xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, từng bước thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng-an ninh, giữ vững ổn định chính trị. Xây dựng Đảng, chính quyền Mặt trận và các đoàn thể trong sạch, vững mạnh”.

     Tháng 4 năm 2001, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng chủ trương phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, vì mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh; khẳng định phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đại hội đề ra chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001 – 2010) với mục tiêu tổng quát đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

     Việc tổ chức thành công Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng và Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ XV, Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XVII với những định hướng lớn là cơ sở, nền tảng quan trọng để Đảng bộ và nhân dân Thành phố Thanh Hóa quyết tâm xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, văn minh.

 

 

2. Phát huy các nguồn lực xây dựng thành phố theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa.

     Để đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống, Ban Thường vụ Thành uỷ xác định Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX của Đảng bộ gồm 10 chương trình chủ yếu:

Chương trình đẩy mạnh thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Chương trình đẩy mạnh phát triển công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp 

Chương trình đẩy mạnh tăng thu ngân sách và thực hành tiết kiệm chi.

Chương trình phát triển và quản lý đô thị.

Chương trình khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh dịch vụ và giải quyết việc làm.

Chương trình phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo, nâng cao dân trí, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

Chương trình phát triển văn hoá - xã hội.

Chương trình tăng cường công tác quốc phòng - an ninh và đẩy mạnh phòng chống tội phạm và các tệ nạn xã hội.

Chương trình tiếp tục xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Chương trình chỉ đạo điểm, kiểm tra, thanh tra, sơ kết, tổng kết.

     Ngay từ đầu năm 2001, Ban Thường vụ Thành uỷ đã cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XVII thành các nhiệm vụ trọng tâm của thành phố: Tập trung đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá. Tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng, đồng thời giải quyết tốt vấn đề xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Giữ vững an ninh chính trị- trật tự an toàn xã hội. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, đẩy lùi và ngăn chặn có hiệu quả tệ nạn xã hội và tội phạm. Tiếp tục thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) và cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh.

     Để đạt được các nhiệm vụ trọng tâm đó, Ban Thường vụ Thành uỷ đề ra các nhiệm vụ cụ thể đối với tất cả các lĩnh vực phát triển kinh tế -xã hội, quốc phòng, an ninh, xây dựng và quản lý đô thị, xây dựng Đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân dân.

Về kinh tế: Đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm, tích cực, chủ động hội nhập thị trường khu vực và quốc tế; đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá các doanh nghiệp và thực hiện bán, khoán, cho thuê, giải thể doanh nghiệp theo quy định của Nhà nước. Tiếp tục phát triển doanh nghiệp ngoài quốc doanh; khôi phục và phát huy các ngành nghề truyền thống; đẩy mạnh công nghiệp chế biến nông, lâm, hải sản. Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, phấn đấu đưa giống lúa mới và lúa lai đạt 50% diện tích gieo cấy.

     Về xây dựng và quản lý đô thị: Tăng cường công tác quản lý xây dựng đô thị; hoàn chỉnh quy hoạch chi tiết các khu vực trong thành phố và quy hoạch một số khu đô thị mới; nâng cấp một số tuyến đường ở các khu dân cư bị xuống cấp, xây dựng đồng bộ hệ thống thoát nước, vỉa hè, cây xanh các tuyến nội thành; vận động nhân dân tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng kĩ thuật theo hướng dẫn của Thành phố; hoàn thành dự án xây dựng Khu tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh và các khu di tích khác; đẩy mạnh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nhân dân, giải quyết dứt điểm tình trạng lấn chiếm lòng, lề đường, vỉa hè,…Đẩy mạnh việc thực hiện xây dựng thành phố xanh, sạch, đẹp.

     Về văn hoá-xã hội: Tiếp tục thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở; từng bước chuyển một số trường trung học cơ sở sang loại hình ngoài công lập; nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện và mũi nhọn, giáo dục văn hoá với dạy nghề và kiến thức về phòng chống ma tuý và an toàn giao thông; chấm dứt việc dạy thêm và học thêm ngoài nhà trường. Đẩy mạnh phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá. Mở rộng các hoạt động thể dục thể thao, đa dạng hoá các loại hình hoạt động, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia. Tăng cường công tác chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân, giảm số người sinh con thứ ba trở lên, giảm tỉ lệ tăng dân số tự nhiên mức dưới 0,8%, hạ tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng xuống 18%; thực hiện tốt chính sách xã hội về giải quyết việc làm và xoá đói giảm nghèo, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.

     Về xây dựng Đảng: Thực hiện tốt việc tuyên truyền về thành công của đại hội Đảng bộ các cấp và Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX. Các cấp, các ngành, các đơn vị cụ thể hoá việc thực hiện nghị quyết của Đảng bằng các chương trình hành động và công tác cụ thể; tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) và cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng; làm tốt công tác quy hoạch, bồi dưỡng, bố trí, sắp xếp đội ngũ cán bộ; đẩy mạnh thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.

     Về xây dựng chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể: Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính theo mô hình “một cửa”, nâng cao hiệu quả quản lý của bộ máy Nhà nước; sắp xếp lại bộ máy tổ chức và bố trí cán bộ theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 7 (khoá VIII); nâng cao chất lượng hoạt động của Uỷ ban nhân dân, Hội đồng  nhân dân và các cơ quan chức năng, các đơn vị trực thuộc Thành phố.

     Kiện toàn tổ chức Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; đẩy mạnh các phong trào thi đua, đặc biệt là phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”.

     Triển khai thực hiện các mục tiêu đề ra, ngay trong năm đầu tiên thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XVII, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV và Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Thành phố Thanh Hóa đã giành được nhiều kết quả quan trọng, hoàn thành vượt mức tất cả các chỉ tiêu đề ra. Kinh tế tiếp tục phát triển khá và tương đối toàn diện trong tất cả các ngành, các lĩnh vực.

      Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tăng trưởng cao. Thành phố từng bước triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước.Các doanh nghiệp nhà nước sau khi được cổ phần hoá có bước phát triển tốt như Công ty cổ phần nước mắm Thanh Hương, Phân lân Hàm Rồng, Cơ khí giao thông,… Khu công nghiệp Lễ Môn đã thu hút được nhiều doanh nghiệp đăng kí đầu tư; dự án khu công nghiệp vừa và nhỏ ở Tây Bắc ga, đẩy mạnh xây dựng cơ sở hạ tầng. Công nghiệp ngoài quốc doanh xuất hiện nhiều mô hình sản xuất, kinh doanh có hiệu quả cao.

      Trong nông nghiệp, các xã ngoại thành gieo cấy 5817 ha (trong đó có 198 ha lúa chất lượng cao, 966 ha lúa lai. Đây là diện tích lúa lai lớn nhất so với những năm trước đó), đạt 100% kế hoạch, năng suất đạt 46,3 tạ/ha, sản lượng lương thực đạt 21.917 tấn. Bên cạnh đó, nhân dân đã tích cực chuyển đổi, mở rộng diện tích trồng hoa, cây cảnh lên 58 ha, tăng 79% so với năm 2000. Tuy nhiên, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hoá còn chậm, đầu tư giống cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao chưa được chú trọng. Do đó, giá trị tạo ra trên đơn vị diện tích còn thấp, chưa có các mô hình làm ăn lớn. Trong chăn nuôi, tổng đàn trâu, bò gồm 2.806 con, giảm 6,1% so với năm 2000, đàn lợn 28.000 con, gia cầm 235.055 con tăng 8,4% so với năm 2000.

Các ngành dịch vụ tiếp tục tăng trưởng khá. Dịch vụ vận tải tăng cả về số lượng vận tải và phương tiện. Toàn ngành đã vận chuyển đạt 1.418 ngàn tấn hàng hoá, tăng 7,6% so với năm 2000, khối lượng luân chuyển hàng hoá đạt 107.500 ngàn tấn/km, tăng 7,5% so với năm 2000; khối lượng vận chuyển hành khách đạt 1650 ngàn lượt người, tăng 12% so với năm 2000, khối lượng luân chuyển hành khách đạt 110.000 ngàn lượt người/km, tăng 11% so với năm 2000. Dịch vụ thương mại phát triển, hàng hoá phong phú, đa dạng, giá cả ổn định, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân và phục vụ sản xuất. Thu chi ngân sách vượt kế hoạch tỉnh giao. Tổng thu đạt 42.778 triệu đồng, tăng 31% so với kế hoạch tỉnh giao và tăng 11% so với năm 2000. Kết quả đó đã bảo đảm được các khoản chi cho hoạt động thường xuyên của Thành phố, đồng thời giành một phần đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đô thị. Tổng chi đạt 46.543 triệu đồng, tăng 52% so với kế hoạch tỉnh giao và tăng 39% so với năm trước.

 Trong công tác quản lý đô thị, đã tập trung lập quy hoạch và quản lý quy hoạch. Đến cuối năm 2001, Thành phố đã hoàn thành việc quy hoạch chi tiết Khu Trung tâm, Khu Nam trung tâm, xã Đông Hương, phường Đông Sơn, xã Quảng Thắng, phường Đông Vệ, Khu Đô thị mới Đông Bắc ga, Khu dân cư Mai Xuân Dương, Khu Văn hoá trung tâm Thành phố. Việc triển khai thi công các công trình xây dựng bảo đảm chất lượng và mỹ quan Thành phố. Nhiều tuyến phố được chỉnh trang, nhiều khu đô thị mới hiện đại được hình thành. Nhiều công trình được hoàn thành đúng tiến độ và đưa vào sử dụng có ý nghĩa xã hội sâu sắc, như: Khu văn hoá tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh, Công viên Hồ Thành khu vực I, Khu chứa và xử lý rác thải, đường Đội Cung, đường Minh Khai, Trường Trung học cơ sở Điện Biên và nhiều trường học, trạm y tế ở các phường, xã. Tiếp tục xây dựng công trình đại lộ Lê Lợi kéo dài, Hồ Thành khu vực III; các tuyến đường: Đào Duy Từ, Lê Phụng Hiểu, Phạm Bành, Chu Văn An, Cửa Tả. Tiến hành xây dựng các chợ đầu mối, như: Vườn Hoa, Đông Thọ, Nam Thành,…

 

 Văn hoá, xã hội tiếp tục phát triển toàn diện. Trong giáo dục, đào tạo, chất lượng dạy và học được nâng lên ở tất cả các cấp học, ngành học. Toàn Thành phố có 10 trường Tiểu học đạt chuẩn quốc gia; hoàn thành phổ cập giáo dục Trung học cơ sở. Năm học 2000-2001, tỉ lệ học sinh tốt nghiệp Tiểu học đạt 99,6%, Trung học cơ sở đạt 99,35%; tỉ lệ các cháu 5 tuổi đến trường mẫu giáo và 6 tuổi vào lớp 1 đạt 99,5%; kết quả các đợt thi học sinh giỏi chuyên môn, thi vẽ, thi văn nghệ, thi thể dục thể thao,…đều dẫn đầu Tỉnh. Với những kết quả đó, Thành phố giữ vững danh hiệu đơn vị dẫn đầu toàn tỉnh về chất lượng giáo dục toàn diện và giáo dục mũi nhọn. Bên cạnh đó, giáo dục hướng nghiệp và dạy nghề được quan tâm hơn. Công tác đào tạo nghề cho người lao động được đẩy mạnh theo hướng xã hội hoá.
  Các hoạt động văn hoá, thông tin diễn ra sôi nổi, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hoá của nhân dân. Trong các hoạt động đó, Thành phố đã kết hợp được với việc tuyên truyền các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Phong trào xây dựng phố văn hoá, làng văn hóa, cơ quan văn hoá tiếp tục được cán bộ và nhân dân tích cực tham gia. Trong năm 2001 có thêm 41 phố, làng, cơ quan văn hoá, nâng tổng số phố, làng và cơ quan văn hoá lên 139 đơn vị, trong đó có 17 phố, làng văn hoá
cấp tỉnh và 6 phố, làng văn hoá cấp Thành phố.

 Phong trào thể dục thể thao phát triển cả số lượng và chất lượng, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân. Đến cuối năm 2001, Thành phố có 32 câu lạc bộ, 62.000 người thường xuyên tập luyện thể dục thể thao; tổ chức thành công đại hội thể dục thể thao từ cấp phường, xã đến Thành phố.

Về Y tế, Thành phố thực hiện tốt công tác vệ sinh phòng dịch, nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh cho nhân dân; thực hiện tốt các chương trình tiêm chủng mở rộng, uống vitamin A cho trẻ dưới 5 tuổi và bà mẹ mang thai. Nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình, Thành phố tổ chức 5 lớp tập huấn cho 254 cán bộ chuyên trách dân số và cộng tác viên về kiến thức dân số kế hoạch hoá gia đình; triển khai 3 đợt tăng cường sức khoẻ sinh sản ở 8 phường, xã; khám cho 5.914 lượt người, thực hiện các biện pháp tránh thai cho 7.222 lượt người; giảm tỉ suất sinh 0,47% và tỉ lệ sinh con thứ 3 xuống 1,4%.

Về công tác quốc phòng- an ninh, để chủ động đối phó với mọi tình huống, Ban Thường vụ Thành uỷ đề ra phương hướng chung về công tác quốc phòng - an ninh trong năm 2001: Phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và toàn dân, gắn phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng- an ninh, tập trung xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, củng cố vững chắc khu vực phòng thủ Thành phố mà nền tảng là xây dựng cơ sở, xây dựng cụm tuyến vững mạnh an toàn làm chủ, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng lực lượng quân sự - công an Thành phố vững mạnh, chính quy, từng bước hiện đại, làm nòng cốt cho phong trào quần chúng tham gia thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quốc phòng-an ninh, chủ động đánh bại chiến lược “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của địch và các tình huống khác, giữ vững sự ổn định trên địa bàn, góp phần thúc đẩy kinh tế -xã hội của thành phố tiếp tục phát triển.

An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn được giữ vững, các tệ nạn xã hội và vụ việc về hình sự giảm hơn so với năm 2000. Chương trình phòng chống ma tuý đã thu hút được đông đảo nhân dân tham gia.

Công tác xây dựng chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng có nhiều chuyển biến tích cực. Ban Thường vụ Thành uỷ tập trung triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII và Nghị quyết 16/CP của Chính phủ về sắp xếp tổ chức, tinh giảm biên chế, điều chỉnh chức năng nhiệm vụ của mỗi cơ quan, đơn vị phù hợp với tình hình mới. Các cấp, các ngành của Thành phố nghiêm túc thực hiện việc tổ chức sơ kết 3 năm thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Trưởng phố, trưởng thôn được tham gia các lớp bồi dưỡng kiến thức về quản lý nhà nước.

Nhằm tăng cường công tác quản lý địa bàn dân cư trong tình hình mới, phường Phú Sơn được Chính phủ ra Quyết định chia tách thành 2 phường: phường Tân Sơn và phường Phú Sơn.

Với những thành tích đạt được trong năm 2001, Ban Thường vụ Thành uỷ xác định năm 2002 có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc tạo đà cho quá trình thực hiện nhiệm vụ những năm tiếp theo của nhiệm kỳ 2001-2005. Trên cơ sở đó, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế với tốc độ cao và bền vững, tạo bước đột phá trong phát triển công nghiệp, du lịch và nông nghiệp.

Thực hiện Nghị quyết của Ban Thường vụ Thành uỷ về phát triển sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh, chủ động phối hợp với các ngành chức năng của Tỉnh, lãnh đạo các phường, xã đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và nhân dân tập trung đầu tư, mở rộng sản xuất, kinh doanh. Phối hợp với Ban quản lý khu công nghiệp của Tỉnh thúc đẩy việc đầu tư cơ sở hạ tầng kĩ thuật khu công nghiệp Lễ Môn nhằm thu hút các dự án đầu tư, đồng thời xúc tiến quy hoạch các khu công nghiệp dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở khu vực Tây Bắc ga. Bên cạnh đó, tiếp tục đổi mới công tác quản lý đối với các công ty,  hợp tác xã, tổ hợp sản xuất. Tiếp tục sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khóa IX), thực hiện cổ phần hóa và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa hoạt động ổn định.

Về xây dựng và quản lý đô thị, đẩy nhanh tiến độ xây dựng quy hoạch chi tiết các khu vực trên địa bàn Thành phố; tập trung thi công hoàn thành các công trình Hồ Thành khu vực I; triển khai các công trình chuyển tiếp và lập dự án đầu tư các công trình mới như: Đại lộ Bắc- Nam, đại lộ Lê Lợi kéo dài, đường vành đai phía Tây, khu du lịch Hàm Rồng, khu du lịch Mật Sơn; nâng cấp cải tạo lòng đường, vỉa hè, mương thoát nước, trồng cây xanh theo quy hoạch nhằm hoàn chỉnh đồng bộ các tuyến đường nội thành; cải tạo đường giao thông nông thôn; vay vốn xây dựng kiên cố hoá trường học; đẩy nhanh tiếp độ thực hiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà cho nhân dân theo Nghị định 60/CP của Chính phủ; bàn giao lưới điện của Thành phố cho ngành điện quản lý theo quy định của Nhà nước.

Về văn hoá xã hội, tiếp tục nâng cao chất lượng dạy và học, gắn nhà trường với gia đình, gắn giáo dục văn hoá với đào tạo nghề; tăng cường quản lý việc dạy thêm và học thêm; tổ chức các hoạt động thông tin tuyên truyền về chủ trương đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và những chủ trương, kế hoạch của Thành phố về xây dựng Thành phố Thanh Hóa ngày càng khang trang, giàu đẹp; đẩy mạnh cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng nếp sống văn hoá ở mỗi phố, làng, cơ quan, đơn vị; thực hiện tốt công tác chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân, chủ động phòng chống dịch bệnh, kiểm tra, quản lý chặt chẽ vấn đề hành nghề y dược tư nhân, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm; duy trì hoạt động có hiệu quả công tác dân số kế hoạch hoá gia đình và chăm sóc trẻ em, giữ ổn định tỉ lệ phát triển dân số tự nhiên 0,7%, hạn chế các trường hợp sinh con thứ 3, giảm tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng xuống dưới 18%.

Về công tác chính quyền, đoàn thể, tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, đẩy mạnh thực hiện quy chế dân chủ, nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân, tiến hành sắp xếp bộ máy và tinh giảm biên chế theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (khoá VIII) và Nghị quyết 16/CP của Chính phủ.

Tháng 2 -2002, Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa IX bàn về các biện pháp đẩy mạnh phát triển kinh tế- xã hội. Hội nghị thông qua nhiều quyết định quan trọng, trong đó có Nghị quyết Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân. Nghị quyết khẳng định trong những năm đổi mới, kinh tế tư nhân hoạt động rộng khắp cả nước, đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế xã hội, huy động các nguồn lực xã hội vào sản xuất kinh doanh, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, cải thiện đời sống nhân dân, đóng góp ngày càng tăng vào ngân sách nhà nước, góp phần giữ ổn định xã hội. Nghị quyết chỉ rõ phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo đúng pháp luật, bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp của công dân, khuyến khích, hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi về định hướng, quản lý phát triển kinh tế tư nhân theo pháp luật và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế; bảo vệ lợi ích chính đáng của người lao động và người sử dụng lao động. Trên tinh thần đó, ngày 4-11-2002, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thanh Hóa ra Nghị quyết 03 về phát triển ngành nghề thủ công nghiệp. Nghị quyết xác định nhiệm vụ phát triển các ngành nghề thủ công từ năm 2002 đến năm 2005 và năm 2010 của tỉnh cần tập trung khôi phục và phát triển các ngành, nghề truyền thống có lợi thế; phấn đấu đến năm 2005, hình thành một số cụm công nghiệp cấp huyện và các cụm nghề cơ sở; phấn đấu nâng tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm là 15% trong thời kì 2002- 2010. 

Thực hiện những chủ trương trên, các cấp các ngành, các cơ quan đơn vị của Thành phố Thanh Hóa tập trung xây dựng các kế hoạch chi tiết nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu đề ra. Thành uỷ đã tổ chức các hội nghị với một số ngành của Tỉnh để phối hợp tổ chức thực hiện, nhằm giải quyết những khó khăn vướng mắc trong đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, đẩy nhanh tốc độ phát triển đô thị. Bên cạnh những chính sách phát triển kinh tế của Nhà nước và của Tỉnh, Thành phố bổ sung thêm những ưu đãi nhà đầu tư phù hợp với điều kiện của Thành phố nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển năng động hơn. Với những chủ trương và biện pháp đó, Đảng bộ và nhân dân Thành phố đã đạt được kết quả quan trọng trên tất cả các lĩnh vực.

Kinh tế tăng trưởng khá, năm 2002 giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn đạt 643,8 tỉ đồng, tăng 11,5% so với năm 2001, trong đó phần giá trị do Thành phố quản lý đạt 218,6 tỉ đồng, tăng 13% kế hoạch. Tổng giá trị thương mại, dịch vụ đạt 800 tỉ đồng, tăng 8,5% so với năm 2001, trong đó phần giá trị do Thành phố quản lý đạt 112,3 tỉ đồng, tăng 7% kế hoạch, tăng 15,% so với năm 2001. Phương tiện vận tải tăng 5,1%, chất lượng phục vụ được cải thiện, đáp ứng yêu cầu ngày một hơn nhu cầu về sản xuất, kinh doanh và đời sống của nhân dân. Trong nông nghiệp, tuy diện tích gieo trồng giảm, nhưng giá trị sản xuất tăng 1,8%, trong đó điện tích trồng lúa giảm 4% nhưng sản lượng tăng 2,85%; đàn trâu, bò 3.417 con, trong đó có 448 bò Lai sind, đàn lợn hơn 29.000 con, đàn gia cầm 271.750 con, tăng 0,6% so với năm 2001. Các dịch vụ trong sản xuất nông nghiệp phát triển, giá trị trên 1 ha đất canh tác đạt 32 triệu đồng. Thu ngân sách đạt 46,998 tỉ đồng, đạt kế hoạch đề ra, tăng 22,5% so với năm 2001.

Công tác quy hoạch, đầu tư xây dựng và quản lý đô thị có nhiều chuyển biến tích cực. Ủy ban nhân dân Thành phố đã ban hành Quyết định số 369 và Kế hoạch số 132 về việc xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Tiếp đó, Thành ủy có Kế hoạch 18 về huy động toàn thể nhân dân Thành phố tham gia chỉnh trang đô thị; phấn đấu đạt đô thị loại II vào năm 2004.

Trong năm 2002, Thành phố phê duyệt được 6 quy hoạch chi tiết, gồm: khu Trung tâm, khu Nam Trung tâm, các khu đô thị: Đông Hương, Đông Sơn,  Tây ga,  Quảng Thắng. Quy hoạch Bắc Cầu Hạc, Đông Vệ, đồng thời quy hoạch nhiều khu tái định cư cho các khu đô thị mới,… Tập trung đẩy nhanh tiến độ thực hiện các công trình, giải phóng mặt bằng các dự án trọng điểm: Đại lộ Bắc - Nam, Cầu vượt đường sắt, Trung tâm thương mại, Quảng trường Lê Lợi, Đại lộ Lê Lợi kéo dài và nhiều công trình nâng cấp đường giao thông, thoát nước, xây dựng các trường học kiên cố và các khu đô thị mới. Phong trào xây dựng bê tông hóa đường, ngõ ở các phường và đường nông thôn ở các xã được đẩy mạnh, điển hình là Đông Hải.

Tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn đạt 200 tỉ đồng, tăng 8% so với kế hoạch. Việc thực hiện công trình theo phương châm: Nhà nước và nhân dân cùng làm đã đạt kết quả khá. Từ giữa năm 2001 đến cuối năm 2002 có 50 công trình được thực hiện theo phương thức này, trong đó có 21 công trình đã hoàn thành với tống số tiền đầu tư là 3,157 tỉ đồng, nhân dân đóng góp 1,3 77 tỉ đồng, bằng 43,6%. Công tác quản lý đô thị theo quy hoạch từng bước vào nền nếp. Thành phố ban hành quy chế phân cấp quản lý đô thị và thành lập đội kiểm tra quy tắc đô thị.

 

Văn hoá - xã hội có nhiều chuyển biến tích cực. Tỉ lệ học sinh tốt nghiệp các cấp và lên lớp năm học 2001-2002 đạt hơn 99%. Năm học 2002-2003 triển khai thực hiện tốt việc thay sách giáo khoa lớp 1 và lớp 6. Thành phố đầu tư trên 10 tỷ đồng xây dựng mới 68 phòng học kiên cố. Thành phố tiếp tục là đơn vị dẫn đầu tỉnh về giáo dục toàn diện và giáo dục mũi nhọn. Năm 2001, thành lập Hội khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập trên địa bàn Thành phố.

Hoạt động văn hoá, thông tin có nhiều tiến bộ, phục vụ tốt việc thực hiện nhiệm vụ chính trị. Thành phố tiếp tục triển khai trùng tu tôn tạo các di tích lịch sử, quản lý lễ hội nhằm phục vụ đời sống tinh thần của nhân dân. Thành phố có thêm 42 phố, làng, cơ quan văn hoá, nâng tổng số đạt chuẩn văn hóa cấp tỉnh 176 đơn vị.

Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ nhân dân và thực hiện chính sách xã hội được quan tâm. Các cơ sở y tế được củng cố và tăng cường, chất lượng khám chữa bệnh ngày càng nâng cao. Thực hiện có hiệu quả các chương trình quốc gia về y tế, không để xảy ra dịch bệnh. Tỉ lệ tăng dân số tự nhiên đạt 0,68%, giảm 0,02% so với kế hoạch; số người sinh con thứ ba trở lên giảm so với năm trước; tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng còn 17%, giảm 1% so với kế hoạch, các gia đình chính sách, đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt được quan tâm giúp đỡ. 

 

 

 

Quốc phòng, an ninh được giữ vững, nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang và xây dựng cơ sở an toàn, sẵn sàng chiến đấu gắn với thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; hoàn thành chỉ tiêu tuyển quân và huấn luyện quân sự. An ninh chính trị trên địa bàn được giữ vững. Chương trình quốc gia về phòng chống tội phạm theo Nghị quyết 09/CP của Chính phủ được nhân dân đồng tình hưởng ứng, góp phần bảo vệ trật tự trị an trên địa bàn.

Song song với tập trung lãnh đạo phát triển kinh tế-xã hội, công tác xây dựng Đảng được các cấp ủy thường xuyên quan tâm. Các đảng bộ, chi bộ thực hiện nghiêm chỉnh việc quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, Tỉnh ủy, Thành ủy và của cấp ủy trực thuộc tới toàn thể đảng viên. Qua đó ý thức chính trị của cán bộ, đảng viên được nâng cao. Bên cạnh đó, nhằm bổ sung kiến thức cho đội ngũ cán bộ làm công tác Đảng, Thành ủy đã tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ công tác Đảng, chính quyền và đoàn thể. Những biểu hiện tư tưởng lệch lạc của một số cán bộ, đảng viên và nhân dân được uốn nắn kịp thời. Cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng.

Công tác tổ chức, cán bộ có nhiều chuyển biến tích cực. Đảng bộ đã triển khai thực hiện quy định về phân công, phân cấp quản lý bộ máy và cán bộ, đánh giá bổ nhiệm cán bộ. Kịp thời ổn định bộ máy tổ chức và bố trí cán bộ đối với những đơn vị thành lập mới, chia tách. Việc quy hoạch cán bộ nhiệm kỳ 2005-2010 được chuẩn bị chu đáo. Các cấp ủy chủ động giới thiệu nguồn cho thử thách qua công việc và đưa đi đào tạo, bồi dưỡng.

Công tác phát triển Đảng được tiến hành thường xuyên. Năm 2002, Đảng bộ kết nạp 324 đảng viên mới, trong đó có 18 đảng viên đường phố. Đảng bộ có 106 tổ chức cơ sở Đảng trực thuộc. Qua phân loại, có 63 cơ sở đạt danh hiệu Trong sạch vững mạnh, 38 cơ sở đạt khá và 4 cơ sở yếu kém. Đảng bộ có 10.199/10.893 đảng viên tham gia đánh giá chất lượng, trong đó có 3.778 đồng chí đạt danh hiệu đảng viên xuất sắc, chiếm 37,04%, số đảng viên vi phạm tư cách 112, chiếm 1,1%. Trong năm có 47 đảng viên bị kỷ luật, trong đó khai trừ 8, cảnh cáo 23, khiển trách 16.

Về phát triển đảng khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh, đã thực hiện đúng quan điểm, chủ trương của Đảng và của Đảng bộ tỉnh. Chi bộ doanh nghiệp Tiến Nông là Chi bộ được thí điểm thành lập đầu tiên của Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa.

Hướng tới kỷ niệm 200 năm thành lập tỉnh lỵ và 10 năm thành lập Thành phố Thanh Hóa, đồng thời triển khai thực hiện Nghị quyết 03 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, ngày 16-11-2002, Ban Thường vụ Thành ủy ra Kế hoạch số 18/TU đề ra 4 nhiệm vụ trong tâm của Thành phố đến năm 2004:

Đẩy mạnh phát triển kinh tế với trong tâm là phát triển tiểu thủ công nghiệp và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp

Tập trung giải phóng mặt bằng xây dựng các công trình trọng điểm của theo đúng kế hoạch, huy động nội lực trong xây dựng cơ sở hạ tầng và chỉnh trang đô thị

Tập trung giải quyết có hiệu quả những vấn đề nổi cộm trong lĩnh vực văn hóa-xã hội

Tấn công truy quét các loại tội phạm và tệ nạn xã hội, đặc biệt là tệ nạn ma túy.

Đầu năm 2003, Đảng bộ Thành phố tiếp tục bổ sung kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội của thành phố theo hướng: Tập trung huy động nội lực, tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài, đẩy mạnh phát triển sản xuất – kinh doanh, tạo bước đột phá về phát triển kinh tế, từng bước phấn đấu để Thành phố thực sự là trung tâm ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ của tỉnh. Đẩy mạnh tiến độ giải phóng mặt bằng và xây dựng kết cấu hạ tầng kĩ thuật. Nâng cao chất lượng hoạt động văn hoá xã hội, kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng an ninh, tấn công truy quét tội phạm và tệ nạn xã hội, đặc biệt là tội phạm về ma tuý. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, xây dựng chính quyền trong sạch vững mạnh; đổi mới hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể quần chúng, xây dựng Thành phố ngày một văn minh, hiện đại, đến năm 2004 được công nhận là Thành phố loại 2. Để thực hiện được mục tiêu trên, Đảng bộ xác định tập trung thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp sau:

Các cơ sở kinh tế tập trung chuẩn bị cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đổi mới công nghệ, áp dụng các tiến bộ khoa học, kĩ thuật vào sản xuất, kinh doanh; các doanh nghiệp nhà nước chủ động xây dựng phương án chuyển đổi hình thức sở hữu phù hợp, bảo đảm sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu trong nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, đưa chăn nuôi trở thành ngành sản xuất chính, hình thành các vùng hoa, rau an toàn tập trung; phát triển các loại thuỷ sản có giá trị xuất khẩu; nhân rộng các mô hình làm ăn có hiệu quả và du nhập nghề mới, tạo việc làm cho người lao động, phấn đấu đạt giá trị 40-50 triệu đồng/1 ha.

Thành phố tạo cơ chế chính sách khuyến khích phát triển sản xuất, kinh doanh; xây dựng thêm một số khu công nghiệp vừa và nhỏ, lập quỹ khuyến khích phát triển sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, nông nghiệp và đào tạo nghề.

Xây dựng quản lý đô thị, tập trung hoàn thành các quy hoạch chi tiết còn lại, thực hiện việc quản lý đất đai, đô thị theo quy hoạch. Đẩy mạnh phong trào xây dựng cơ sở hạ tầng theo phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm, từng bước chỉnh trang đô thị; mỗi phường, xã có kế hoạch phát động nhân dân và các cơ quan đóng trên địa bàn xây dựng 1-2 phố kiểu mẫu.

Văn hoá-xã hội, tiếp tục giữ vững chất lượng giáo dục dẫn đầu tỉnh, phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở, từng bước phổ cập trung học phổ thông; tăng cường giáo dục đạo đức cho học sinh. Nâng cao chất lượng các cơ sở đào tạo nghề; đẩy mạnh việc xây dựng trường chuẩn quốc gia. Phát huy mạnh mẽ vai trò của Hội khuyến học, từng bước xây dựng một xã hội học tập.

Tập trung nâng cao chất lượng cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”; làm tốt công tác vệ sinh môi trường, nâng cao chất lượng phục vụ của các cơ sở y tế, không để xảy ra dịch bệnh, quản lý chặt chẽ hành nghề y, dược tư nhân. Tiếp tục đẩy mạnh truyền thông dân số, hạn chế đến mức thấp nhất tỉ lệ sinh con thứ ba trở lên, phòng chống HIV/AIDS; giải quyết việc làm cho 1000 - 1500 lao động, xúc tiến hoạt động xuất khẩu lao động.

Về quốc phòng - an ninh, thực hiện tốt công tác quốc phòng toàn dân và xây dựng thế trận an ninh nhân dân, thường xuyên nâng cao cảnh giác, sẵn sàng đập tan âm mưu chống phá, gây rối, bạo loạn của địch, không để xảy ra tình huống đột xuất, bất ngờ. Hoàn thành chỉ tiêu tuyển quân, bảo đảm số lượng và chất lượng, nâng cao chất lượng huấn luyện quân sự hàng năm. Tiếp tục thực hiện phòng chống tội phạm, đặc biệt là tội phạm ma tuý; tăng cường quản lý trật tự an toàn giao thông nhằm giảm thiểu tai nạn,..

Trong công tác xây dựng Đảng, tập trung tuyên truyền về đợt thi đua lập thành tích xuất sắc kỷ niệm 200 năm đô thị tỉnh lỵ và 10 năm thành lập Thành phố. Thực hiện nghiêm túc Điều lệ Đảng, đảng viên phải nói và làm việc theo nghị quyết của Đảng, gương mẫu trong các phong trào. Quan tâm thành lập chi bộ đảng ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng, thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong việc bàn bạc và quyết nghị những vấn đề quan trọng ở từng địa phương, cơ quan, đơn vị. Sơ kết việc thực hiện Quy định 76 của Bộ Chính trị về tăng cường mối quan hệ của đảng viên đang công tác ở cơ quan, đơn vị với cấp uỷ nơi cư trú.

Thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, vận động nhân dân tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước. Tiếp tục củng cố, xây dựng chính quyền vững mạnh, thực hiện có hiệu quả cải cách thủ tục hành chính.

Tập trung triển khai thực hiện những chủ trương trên, đến cuối năm 2003, năm bản lề của nhiệm kỳ 2001-2005, đồng thời là năm tăng tốc phát triển hướng tới kỷ niệm 200 năm đô thị tỉnh lỵ và 10 năm thành lập Thành phố, Đảng bộ và nhân dân Thành phố đã giành được những kết quả quan trọng.

Thực hiện chủ trương của Đảng bộ, Ủy ban nhân dân Thành phố đã ban hành nhiều quy định khuyến khích phát triển sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, tạo mặt bằng cho các cơ sở kinh tế tổ chức sản xuất, kinh doanh. Nhờ đó, kinh tế Thành phố tiếp tục tăng trưởng, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, các chỉ tiêu kinh tế cơ bản đều vượt kế hoạch, nhiều mô hình sản xuất, kinh doanh có hiệu quả được nhân lên.

Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tiếp tục phát triển. Thành phố có 2005 cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, tạo việc làm cho hơn 8.000 lao động. Phần lớn các cơ sở sản xuất, kinh doanh được trang bị kĩ thuật, công nghệ hiện đại, thực hiện liên doanh, liên kết, mở rộng thị trường, quy mô sản xuất, đa dạng hoá sản phẩm, tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho người lao động. Tổng giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đạt 774 tỉ đồng, bằng 104% kế hoạch, tăng 22,9% so với năm trước, trong đó công nghiệp ngoài quốc doanh đạt 281 tỉ đồng, bằng 107,2% kế hoạch; các thành phần kinh tế khác đều tăng từ 17 đến 37%.

Thương mại phát triển ổn định, tổng giá trị hoạt động thương mại- dịch vụ trên địa bàn Thành phố đạt 904 tỉ đồng, tăng 13% so với năm trước. Thu ngân sách đạt 98,49 tỉ đồng, bằng 157% kế hoạch Tỉnh giao và bằng 143% so với mức phấn đấu của Thành phố. Tổng chi ngân sách đạt 83,879 tỉ đồng, trong đó ngoài việc bảo đảm chi thường xuyên cho bộ máy của Thành phố, còn chi 57 tỉ đồng cho xây dựng cơ bản.

Sản xuất nông nghiệp khởi sắc, cơ cấu cây trồng, vật nuôi được chuyển dịch đúng hướng, kinh tế trang trại phát triển, nhất là ở các xã vùng ven Thành phố. Tổng giá trị toàn ngành nông lâm nghiệp đạt hơn 143 tỉ đồng. Trong đó, đàn lợn có 34.752 con, đạt 115% kế hoạch, tăng 19% so với cùng kỳ; đàn bò có 3.863 con (có hơn 400 bò Lai Sind), đạt 113% kế hoạch, tăng 13%, có 20 trang trại nuôi bò tập trung. Tổng diện tích gieo trồng cả năm 5.497,3 ha, đạt 109,6% kế hoạch; năng suất lúa vụ chiêm xuân đạt 56,2 tạ/ha, vụ mùa đạt 41,2 tạ/ha.

Văn hóa- xã hội tiếp tục phát triển, Thành phố dẫn đầu Tỉnh về giáo dục toàn diện và giáo dục mũi nhọn. Trong năm học có 773 học sinh giỏi cấp tỉnh, 18/18 phường xã đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, 12 trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia, 21/23 trường mầm non tổ chức học bán trú, số trẻ được ăn nghỉ tại trường đạt 70%.

Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” thấm sâu trong quần chúng nhân dân. Hoạt động văn hoá, thông tin bám sát các nhiệm vụ chính trị của Thành phố. Trong năm có thêm 50 phố, làng, cơ quan văn hoá, đạt 125% kế hoạch, nâng tổng số phố, làng văn hoá toàn Thành phố lên 212 đơn vị (gồm 180 phố, làng và 32 cơ quan), trong đó có 55 đơn vị.

Công tác y tế được chú trọng, chất lượng khám chữa bệnh được nâng lên. Công tác truyền thông dân số, bảo vệ bà mẹ và trẻ em được cấp uỷ, chính quyền và nhân dân quan tâm. Tỉ lệ tăng dân số tự nhiên đạt 0,6%, số người sinh con thứ 3 trở lên giảm còn 0,4%, trẻ em suy dinh dưỡng giảm còn 15%.

Chính sách xã hội được triển khai đồng bộ, đặc biệt là công tác xoá đói giảm nghèo. Thành phố hỗ trợ cho các hộ nghèo được vay 8,3 tỉ đồng, nâng tổng số vốn cho các hộ nghèo vay lên 23,4 tỉ đồng. Qua đó, số hộ nghèo giảm từ 5,91% còn 4,66%. Thành phố phát động Tháng hành động vì người nghèo, quyên góp được 206 triệu đồng, hỗ trợ xây dựng 8 nhà tình thương cho 8 hộ nghèo, trao tặng 4 nhà tình nghĩa cho 4 gia đình liệt sĩ, tiếp nhận 156 hài cốt liệt sĩ đưa về Nghĩa trang Liệt sĩ Hàm Rồng.

An ninh chính trị được giữ vững. Lực lượng vũ trang Thành phố bảo đảm yêu cầu sẵn sàng chiến đấu. Thành đội chỉ đạo chặt chẽ công tác huấn luyện quân sự đối với lực lượng dân quân, tự vệ và quân dự bị động viên, tổ chức diễn tập chiến đấu theo các cụm.

Công tác xây dựng Đảng có nhiều chuyển biến quan trọng. Thực hiện nhiệm vụ đề ra, các cấp ủy Đảng đã tập trung quán triệt triển khai thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, như: Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII, Nghị quyết Trung ương 7 khóa VIII, Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX, tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, tổng kết 5 năm thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở theo Chỉ thị 30 của Bộ Chính trị khóa VIII, tổ chức học tập tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh theo Chỉ thị số 23 của Ban Bí thư (khóa IX).... Việc quán triệt thực hiện chỉ thị, nghị quyết của Đảng gắn liền với nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của mỗi tổ chức đảng và đảng viên.

Đối với việc tổ chức hội nghị giữa nhiệm kỳ 2001-2005 và  Đại hội Đảng bộ, chi bộ cơ sở nhiệm kỳ 2003-2005, thực hiện Kế hoạch số 17- KH/TU ngày 9-4- 2003 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy và Hướng dẫn số 11-HD/TU ngày 11-4-2003 của Ban Tổ chức Tỉnh ủy về tiến hành đại hội tổ chức cơ sở đảng cơ quan đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp và lực lượng vũ trang, ngay trong ngày 11-4-2003, Ban Thường vụ Thành ủy ra Hướng dẫn số 09-HD/TU về đại hội Đảng bộ, chi bộ cơ sở nhiệm kỳ 2003-2005. Tiếp đó, ngày 14-5-2003, Ban Thường vụ Thành ủy ra Kế hoạch số 23-KH/TU về kiểm điểm thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ các cấp giữa nhiệm kỳ 2001-2005.

Với sự hướng dẫn và chỉ đạo chặt chẽ của Thành uỷ, các tổ chức cơ sở Đảng  đã thực hiên tốt công tác chuẩn bị hội nghị giữa nhiệm kỳ và đại hội nhiệm kỳ 2003-2005. Báo cáo kiểm điểm giữa nhiệm kỳ của các đảng bộ khối phường, xã đã nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng những kết quả đạt được trong việc thực hiện các mục tiêu đề ra; chỉ rõ những thiếu sót, khuyết điểm cũng như các nguyên nhân của thiếu sót, khuyết điểm đó; đồng thời đề ra những giải pháp cụ thể, tiếp tục lãnh đạo thực hiện những mục tiêu còn lại đến hết nhiệm kỳ.

Cùng với việc tổ chức thành công hội nghị giữa nhiệm kỳ của các tổ chức cơ sở đảng khoá 2001-2005 và đại hội nhiệm kỳ 2003-2005, Ban Thường vụ Thành uỷ tập trung chỉ đạo các cấp uỷ đảng, các phòng, ban ngành của thành phố triển khai thực hiện Hướng dẫn số 17 của Ban Tổ chức trung ương và Hướng dẫn số 14 của Ban Tổ chức Tỉnh uỷ về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kì công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Đến cuối năm 2003, tất cả phường, xã và phần lớn các cơ quan hành chính, sự nghiệp và doanh nghiệp đã xây dựng xong quy hoạch cán bộ nhiệm kỳ 2005-2010, trước mắt là tập trung nguồn nhân sự cho cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân vào năm 2004 và đại hội đảng bộ các cấp vào năm 2005.

Để đổi mới và nâng cao năng lực lãnh đạo cho đội ngũ cán bộ phường, xã, tạo nguồn cán bộ cho Thành phố trong các nhiệm kỳ tiếp theo, năm 2002, Ban Thường vụ Thành ủy đã xin chủ trương của ban Thường vụ Tỉnh ủy cho Thành phố thực hiện luân chuyển cán bộ trẻ được đào tạo chính quy, có triển vọng phát triển về phường, xã đảm nhận các chức danh chủ chốt. Chủ trương, kế hoạch đó đã được sự đồng ý của Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Thành ủy đã điều động, luân chuyển 9 cán bộ lãnh đạo một số phòng, ban của Thành phố về đảm nhận các chức danh chủ chốt Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân ở các phường, xã: Đông Thọ, Hàm Rồng, Đông Hương, Ngọc Trạo, Nam Ngạn, Lam Sơn, Điện Biên.

Nhờ làm tốt công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, các cấp ủy đã kịp thời phát hiện và ngăn ngừa dấu hiệu vi phạm, giải quyết những vấn đề nổi cộm trong trong quá trình thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII. Thành uỷ và cấp uỷ cơ sở xử lí kỷ luật 45 đảng viên vi phạm khuyết điểm, trong đó khiển trách 21, cảnh cáo 18, cách chức 1, khai trừ 5, đưa ra khỏi Đảng bằng các hình thức khác 13. Công tác phát triển đảng viên được chú ý hơn, đã kết nạp 264 đảng viên mới.

Những thành tựu trên tất cả các mặt kinh tế -xã hội, quốc phòng, an ninh, đặc biệt là kết quả hội nghị giữa nhiệm kỳ của các tổ chức cơ sở Đảng khoá 2001-2005 và Đại hội nhiệm kỳ 2003-2005 của các Đảng bộ, chi bộ có ý nghĩa quan trọng để Đảng bộ Thành phố tiếp tục thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ còn lại của kế hoạch 5 năm (2001-2005) .

XÂY DỰNG THÀNH PHỐ TRỞ THÀNH ĐÔ THỊ LOẠI II, HOÀN THÀNH KẾ HOẠCH 5 NĂM (2001-2005)

Tập trung lãnh đạo xây dựng và hoàn thiện các tiêu chí của đô thị loại II

Thành phố Thanh Hóa là trung tâm chính trị, hành chính, kinh tế - xã hội, văn hoá, khoa học của tỉnh, có vị trí quan trọng về an ninh, quốc phòng và có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của cả Tỉnh. Trong thời kỳ đổi mới, được sự quan tâm của Trung ương Đảng, Chính phủ, sự ưu tiên đầu tư của Tỉnh và sự nỗ lực của Đảng bộ, chính quyền và các tầng lớp nhân dân, là động lực để Thành phố đẩy nhanh tốc độ phát triển đô thị. Đặc biệt, kể từ khi có Nghị quyết 02-NQ/TU ngày 26 - 3 - 1997 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về xây dựng phát triển Thành phố đến năm 2010, Đảng bộ Thành phố đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng, phát triển Thành phố một cách toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá, bộ mặt đô thị có nhiều đổi mới, cơ sở hạ tầng kĩ thuật phục vụ sản xuất và đời sống được quan tâm đầu tư, đời sống vật chất tinh thần của nhân dân được cải thiện, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm. Tuy nhiên, tốc độ xây dựng phát triển đô thị còn chậm, việc bố trí đầu tư còn dàn trải, thiếu tập trung, chưa tạo được thay đổi căn bản bộ mặt đô thị, chưa có điểm nhấn của các khu trung tâm. Một số tiêu chí đô thị loại II chưa đạt được theo Nghị định số 72/2002/NĐ-CP ngày 5-10-2001 của Chính phủ.

Để đạt được các tiêu chí của đô thị loại II và được Chính phủ công nhận vào đầu năm 2004 nhân kỷ niệm 200 năm đô thị tỉnh lỵ, 10 năm thành lập Thành phố Thanh Hóa, ngày 14-2-2003, Ban Thường vụ Thành ủy đề xuất với Ban Thường vụ Tỉnh ủy một số cơ chế xây dựng, phát triển Thành phố Thanh Hóa. Thường vụ Thành ủy đề nghị Tỉnh ủy tập trung chỉ đạo đầu tư một số công trình trọng điểm và có cơ chế tạo điều kiện thuận lợi cho Thành phố thực hiện việc chỉnh trang, xây dựng một số dự án, công trình trọng điểm khu trung tâm, như: Quảng trường Lê Lợi, Công viên văn hóa trung tâm, Công viên Hồ Thành (khu vực I, giai đoạn 2), Quảng trường Lam Sơn, Đại lộ Lê Lợi kéo dài; nâng cấp một số tuyến đường nội thành (đường Lê Hoàn, Cao Thắng, Đinh Công Tráng, Hàng Đồng, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Minh Khai, Tống Duy Tân, Lê Hồng Phong, Phan Chu Trinh, Quốc lộ 1A đoạn qua Thành phố) theo hướng đồng bộ, hiện đại, bao gồm cả mặt đường, thoát nước, vỉa hè, cây xanh, điện chiếu sáng; hỗ trợ các phường, xã đầu tư hoàn chỉnh các tuyến đường trục ngoại thành theo phương thức Nhà nước và nhân dân cùng làm; tập trung hoàn thành một số khu tái định cư để phục vụ giải phóng mặt bằng cho các dự án).

Đẩy nhanh tiến độ thực hiện những công trình do Trung ương và Tỉnh đầu tư trên địa bàn Thành phố, như: đại lộ Bắc - Nam, cầu vượt đường sắt, dự án nâng cấp Quốc lộ 1A, Quốc lộ 47, Quốc lộ 45, dự án mở rộng khu công nghiệp Lễ Môn, dự án khu công nghiệp Đình Hương.

Để các công trình trên được triển khai thực hiện đúng tiến độ, bảo đảm chất lượng, hoàn thành vào dịp kỷ niệm 200 năm đô thị tỉnh lỵ, 10 năm thành lập Thành phố, vấn đề đặt ra là cần có một số cơ chế đặc thù về trách nhiệm của chủ đầu tư, thủ tục đầu tư, phương thức đầu tư và về tài chính.

Những kiến nghị của Thành ủy về các nội dung trên đã được Ban Thường vụ Tỉnh uỷ xem xét và chỉ đạo cụ thể. Trên cơ sở đó, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thành phố tiếp tục nỗ lực phấn đấu tập trung xây dựng Thành phố sớm đạt các tiêu chí của đô thị loại II.

Trong năm 2003, Thành phố có 8 quy hoạch chi tiết được phê duyệt và nhiều dự án khác được điều chỉnh bổ sung trình tỉnh phê duyệt. Tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản đạt 867 tỉ đồng, bằng 104,4% kế hoạch, tăng 72% so với năm trước. Các công trình xây dựng cơ bản trọng điểm được tập trung đẩy nhanh tiến độ, như: Quảng trường Lê Lợi, Đại lộ Lê Lợi kéo dài, Trung tâm thương mại, công viên văn hóa thể thao, cầu vượt đường sắt, khu đô thị đông bắc ga, dự án điện Thanh Hóa – Sầm Sơn, khách sạn Sao Mai, trường đại học Hồng Đức, làng SOS. Một số công trình đã hoàn thành và đưa vào sử dụng, như: chợ Đông Thọ, trụ sở một số phường xã, trường học cao tầng. Triển khai thực hiện chỉnh trang 31 tuyến đường nội thành; tiếp tục làm đường giao thông theo phương thức Nhà nước và nhân dân cùng làm nhằm cải thiện cơ sở hạ tầng kĩ thuật ở các khu dân cư. Công tác quản lý đô thị được tăng cường, các công trình xây dựng theo quy hoạch được duyệt. Thành phố cấp 5.400 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đạt 108% kế hoạch. Trật tự đô thị và an toàn giao thông chuyển biến tích cực. Số vụ tai nạn giao thông giảm 24,4%, số người chết do tai nạn giao thông giảm 18,6%.

Với những kết quả đạt được, giữa tháng 12- 2003, Ban chấp Đảng bộ Thành phố đã đề ra nhiệm vụ xây dựng, phát triển Thành phố năm 2004, tiếp tục tập trung hoàn thành các công trình, dự án đã triển khai theo đúng kế hoạch; phát động nhân dân tham gia xây dựng hệ thống giao thông, các công trình phúc lợi xã hội theo phương thức Nhà nước và nhân dân cùng làm; thực hiện chỉnh trang đô thị thị theo tiêu chí đô thị loại II, làm cho Thành phố ngày càng khang trang, sạch đẹp; đẩy mạnh tiến độ giải phóng mặt bằng tạo điều kiện xây dựng các khu đô thị mới, các dự án, công trình trọng điểm. Đồng thời, Thành phố tiến hành rà soát bổ sung quy hoạch và định hướng không gian phát triển Thành phố đến năm 2020. Phối hợp với các ngành trình Uỷ ban nhân dân Tỉnh phê duyệt 3 quy hoạch chi tiết còn lại, đồng thời tích cực xây dựng quy hoạch trung tâm các xã ngoại thành và triển khai xây dựng các khu đô thị mới.

Với những thành tích đạt được trong xây dựng và phát triển Thành phố thời kỳ đổi mới, ngày 6 tháng 4 năm 2004, Chủ tịch Nước ra Quyết định số 174-QĐ tặng thưởng chính quyền và nhân dân Thành phố Thanh Hóa Huân chương Độc lập hạng Ba.

Cùng với niềm vui trước phần thưởng cao quý Đảng và Nhà nước tặng thưởng, trước sự phát triển của Thành phố thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ngày 29-4-2004, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định Quyết định số 72/2004/QĐ-TTg công nhận Thành phố Thanh Hóa thuộc Tỉnh Thanh Hóa là đô thị loại II. Thành phố có tổng diện tích 58,58 km2, dân số gần 200.000 người, với 12 phường nội thành và 6 xã ngoại thành, gồm: các phường Hàm Rồng, Đông Thọ, Trường Thi, Nam Ngạn, Điện Biên, Phú Sơn, Tân Sơn, Ba Đình, Lam Sơn, Đông Sơn, Ngọc Trạo, Đông Vệ và các xã Đông Cương, Đông Hương, Quảng Hưng, Quảng Thành, Quảng Thắng, Đông Hải.

. Đô thị loại II  gồm các tiêu chí sau đây :

Đô thị với chức năng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật, du lịch, dịch vụ, đầu mối giao thông, giao lưu trong vùng tỉnh, vùng liên tỉnh hoặc cả nước, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của một vùng lãnh thổ liên tỉnh hoặc một số lĩnh vực đối với cả nước;

Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp trong tổng số lao động từ 80% trở lên;

Có cơ sở hạ tầng được xây dựng nhiều mặt tiến tới tương đối đồng bộ và hoàn chỉnh;

Quy mô dân số từ 25 vạn người trở lên;

Mật độ dân số bình quân từ 10.000 người/km2 trở lên.

 

Để thực hiện tốt công tác chuẩn bị và tổ chức tốt lễ kỷ niệm 200 năm đô thị tỉnh lỵ, 10 năm thành lập Thành phố, công bố Quyết định nâng cấp Thành phố Thanh Hóa là đô thị loại II, đón nhận Huân chương Độc lập hạng Ba, ngày 14-7-2004, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ tổ chức Hội nghị bàn kế hoạch tổ chức lễ kỷ niệm, xác định thời gian tổ chức sự kiện trọng đại này vào cuối tháng 11 -2004.

Ban Thường vụ Thành uỷ thành lập Ban Chỉ đạo tổ chức lễ kỷ niệm. Uỷ ban nhân dân Thành phố xây dựng phương án, chương trình lễ hội và trình Uỷ ban nhân Tỉnh phê duyệt.

Thực hiện sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, đến cuối năm 2004, kinh tế- xã hội của Thành phố tiếp tục phát triển mạnh, đời sống nhân dân được nâng lên, văn minh đô thị được tăng cường, chính trị ổn định, an ninh được giữ vững; công tác chuẩn bị lễ kỷ niệm chu đáo. Trên cơ sở đó, ngày 29-11-2004, Thành uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân Thành phố tổ chức trọng thể lễ đón nhận Huân chương Độc lập hạng Ba và công bố Quyết định của Thủ tướng Chính phủ công nhận Thành phố Thanh Hóa thuộc tỉnh Thanh Hóa là đô thị loại II. Phát biểu tại buổi lễ, đồng chí Trương Quang Được, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Quốc hội khẳng định: Đây là dịp để Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc tỉnh Thanh Hóa ôn lại truyền thống vẻ vang trong suốt chiều dài lịch sử đấu tranh giành độc lập, bảo vệ Tổ quốc, xây dựng và phát triển; tưởng nhớ các thế hệ cha anh, các anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống; cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của Trung ương, của các địa phương cùng đồng bào cả nước, đồng bào ta ở nước ngoài và bạn bè quốc tế, “để hôm nay có một tỉnh Thanh Hóa, một Thành phố Thanh Hóa đang sánh vai cùng các tỉnh, thành phố trong cả nước vững bước trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Những thành quả to lớn đạt được thể hiện sự nỗ lực vượt bậc của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thành phố. Chỉ sau 10 năm được công nhận là Thành phố loại III, Thành phố Thanh Hóa đã trở thành Thành phố loại II với chức năng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá- xã hội, khoa học kỹ thuật của tỉnh; là đầu mối giao thông kết nối giữa các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ với các tỉnh miền trung và cả nước. Điều đó khẳng định tốc độ phát triển nhanh, mạnh của Thành phố. Đảng, Nhà nước đánh giá cao những cố gắng, nỗ lực và những thành tích về phát triển kinh tế-xã hội, quốc phòng-an ninh, đối ngoại của Đảng bộ và nhân dân Thành phố đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng và chấn hưng đất nước.

Để Thành phố Thanh Hóa phát triển nhanh, mạnh, vững chắc hơn nữa trong những năm tiếp theo, đồng chí Trương Quang Được đề nghị Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thành phố cũng như toàn Tỉnh Thanh Hóa quan tâm một số vấn đề:

Một là: Tập trung xây dựng, hoàn chỉnh quy hoạch đồng bộ, gắn với tổ chức thực hiện có hiệu quả và quản lý chặt chẽ quy hoạch đã được duyệt. Trên cơ sở quy hoạch, cần xây dựng các chương trình, dự án cụ thể, xác định nguồn vốn đầu tư, động viên các thành phần kinh tế và nhân dân tham gia xây dựng và phát triển đô thị. Xây dựng đồng bộ và hiện đại hóa kết cấu hạ tầng đô thị.

Hai là: Đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội, tạo bước phát triển mạnh hơn về tốc độ và chất lượng tăng trưởng, bảo đảm tính bền vững; tập trung cải thiện môi trường đầu tư; tạo chuyển biến rõ nét trong cải cách hành chính; giữ vững ổn định chính trị, quốc phòng-an ninh.

Có chính sách đào tạo, sử dụng, thu hút nhân tài gắn với chiến lược phát triển nguồn nhân lực.

Ba là: Chăm lo đời sống nhân dân; chú ý xóa đói, giảm nghèo; giải quyết việc làm, phát triển giáo dục-đào tạo, y tế, khoa học-công nghệ; giải quyết các vấn đề xã hội; phòng chống tệ nạn xã hội; xây dựng nếp sống văn minh, thanh lịch.

Bốn là: các tổ chức trong hệ thống chính trị phải đặc biệt quan tâm đến công tác xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh; phát huy quyền làm chủ của nhân dân; thắt chặt mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân. Tích cực đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Xây dựng đội ngũ cán bộ tài năng, biết đoàn kết, tập hợp được sức mạnh của toàn dân vào sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa quê hương đất nước.

Hoàn thành kế hoạch 5 năm 2001-2005

Đầu năm 2004, Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương tổ chức tổng kết nửa nhiệm kỳ khóa IX và đề ra các nhiệm vụ, giải pháp nhằm tiếp tục thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần IX. Hội nghị xác định trong những năm còn lại của kế hoạch 5 năm (2001-2005) cần phải đẩy nhanh nhịp độ tăng trưởng kinh tế; tiếp tục xây dựng đồng bộ cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tháo gỡ những vướng mắc về cơ chế, chính sách nhằm giải phóng sức sản xuất; đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, đồng thời phát triển không hạn chế quy mô doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác;... Hội nghị tiếp tục khẳng định phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt.

Đây là chủ trương lớn của Ban Chấp hành Trung ương, định hướng cho các tổ chức Đảng tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các nhiệm vụ đề ra trong nhiệm kỳ của mình. Đối với Đảng bộ Thành phố Thanh Hóa, ngay từ cuối tháng 12-2003, Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố đã đề ra phương hướng nhiệm vụ chung của năm 2004, đó là: Phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo, tranh thủ mọi thời cơ thuận lợi, tích cực khắc phục những yếu kém khó khăn, huy động mọi nguồn lực đẩy mạnh phát triển sản xuất kinh doanh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo bước đột phá về phát triển kinh tế, phấn đấu để Thành phố thực sự là trung tâm chính trị, kinh tế văn hoá xã hội, khoa học, kĩ thuật của cả tỉnh. Xây dựng và chỉnh trang đô thị theo tiêu chí của đô thị loại II. Nâng cao chất lượng hoạt động văn hoá xã hội, kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế- xã hội với củng cố quốc phòng - an ninh, tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, xây dựng chính quyền trong sạch vững mạnh, đổi mới hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn  thể chính trị-xã hội, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, phấn đấu xây dựng Thành phố ngày càng văn minh hiện đại, phát triển nhanh và vững chắc.

Các mục tiêu chủ yếu:

Về kinh tế,  tổng sản phẩm quốc nội trên địa bàn (GDP) tăng 16%, bình quân đầu người 929 USD; tăng trưởng các ngành kinh tế chủ yếu: công nghiệp 22-23%, dịch vụ- thương mại 13%, nông nghiệp 6%. Cơ cấu kinh tế công nghiệp-dịch vụ- nông nghiệp trong GDP có tỉ trọng 38% - 57% - 5%.

Tổng vốn đầu tư toàn xã hội 900 tỉ đồng. Thu ngân sách tăng 10% so với kế hoạch tỉnh giao.

Về văn hóa-xã hội, duy trì phổ cập tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập trung học cơ sở và từng bước hoàn thành phổ cập trung học phổ thông, xây dựng một trường đạt chuẩn quốc gia, chuyển một số trường trung học cơ sở và tiểu học sang bán công.

Giảm mức sinh xuống 0,2%0, tỉ lệ tăng dân số tự nhiên 0,7%. Hạ tỉ lệ đói nghèo xuống dưới 4%. Hạ tỉ lệ thất nghiệp xuống dưới 5%. Giảm tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng xuống dưới 14%.

Tỉ lệ gia đình văn hoá  đạt 75% trở lên, gia đình thể thao 38% trở lên; 85% phố làng văn hoá.

Đảm bảo quốc phòng-an ninh, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Hoàn thành chỉ tiêu giao quân năm 2004 và huấn luyện quân sự đạt chất lượng tốt. Phấn đấu 100% đơn vị cơ sở an toàn làm chủ-sẵn sàng chiến đấu và thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở.

Về xây dựng hệ thống chính trị, tổ chức bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân 3 cấp có tỉ lệ cử tri tham gia cao và đúng luật. Phấn đấu 80% cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh.

Để thực hiện được những mục tiêu trên, Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố đề ra các giải pháp chủ yếu sau:

Về kinh tế, tiếp tục đẩy mạnh phát triển công nghiệp ngoài quốc doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nhằm thu hút vốn, khuyến khích phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nâng cao chất lượng và mở rộng hoạt động thương mại, phấn đấu tổng mức bán lẻ hàng hoá, dịch vụ đạt 1.030 tỉ đồng. Phát triển đa dạng các loại hình dịch vụ, nhất là dịch vụ phục vụ sản xuất, du lịch, dịch vụ xuất khẩu nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu về sản xuất và đời sống của nhân dân. Trong nông- lâm nghiệp, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi hướng tới mục tiêu cánh đồng 50 triệu đồng/ ha, hộ gia đình có thu nhập 40-50 triệu đồng/ năm. Phấn đấu giá trị sản xuất nông - lâm nghiệp đạt 1150,6 tỉ đồng, tăng 6% so với năm 2003; tổng diện tích gieo trồng cả năm 5487 ha, diện tích rau an toàn 15 ha, hoa chất lượng cao 2 ha, bò Lai sind 700 con, đàn lợn 36.000 con, trong có 1700 con lợn hướng nạc đủ tiêu chuẩn xuất khẩu, 500 lợn nái ngoại hướng nạc, cá thâm canh 30 ha.

Về xây dựng, quy hoạch và quản lý đô thị, tập trung hoàn thành việc rà soát, bổ sung quy hoạch và định hướng phát triển đến năm 2020; đẩy mạnh tiến độ thi công các công trình trọng điểm như cầu vượt đường sắt, trung tâm thương mại, công viên văn hoá thể thao, đường Lê Lợi kéo dài; triển khai dự án xây dựng nhà ở cho người có thu nhập thấp, công nhân khu công nghiệp; chỉnh trang các tuyến phố nội thành,…

Về các lĩnh vực văn hoá- xã hội, đẩy mạnh xã hội hoá lĩnh vực văn hoá xã hội, tiếp tục thực hiện cuộc vân động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở nơi dân cư, trọng tâm là xây dựng phố, làng , cơ quan văn hoá, xây dựng nếp sống văn minh đô thị; giữ vững danh hiệu đơn vị dẫn đầu tỉnh về chất lượng giáo dục toàn diện; tổ chức tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân về Pháp lệnh dân số, chủ động phòng chống các loại dịch bệnh, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cho nhân dân; tiếp tục đẩy mạnh công tác xoá đói giảm nghèo, tập trung giải quyết việc làm tai chỗ, đẩy mạnh xuất khẩu lao động, phấn đấu giảm tỉ lệ hộ đói nghèo xuống dưới 4%, giảm tỉ lệ thất nghiệp xuống dưới 5%.

Về quốc phòng- an ninh, hoàn thành việc gọi thanh niên nhập ngũ, nâng cao chất lượng huấn luyện dân quân tự vệ, dự bị động viên; củng cố vững chắc nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng cụm tuyến an toàn làm chủ-sẵn sàng chiến đấu gắn với thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, xây dựng phố, xóm không có tệ nạn xã hội và tội phạm.

Tiếp tục kiện toàn bộ máy chính quyền các cấp theo hướng gọn nhẹ, có hiệu quả; đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân; đẩy mạnh cải cách  hành chính; tổ chức tốt cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp; thực hiện luân chuyển cán bộ xuống cơ sở,…

Về công tác xây dựng Đảng, tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) về cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên; đảng viên nói và làm theo nghị quyết; chủ động rà soát bổ sung quy hoạch cán bộ, xây dựng kế hoạch đào tạo bồi dưỡng cán bộ theo các tiêu chuẩn quy định đối với các chức danh; chuẩn bị nhân sự cho cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp vào quý 2 năm 2004 và đại hội Đảng các cấp trong năm 2005.

Với những giải pháp đồng bộ nêu trên, Đảng bộ và nhân dân Thành phố đã nỗ lực phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ đề ra.

Trong năm 2004, các cơ sở kinh tế chủ động nắm bắt thị trường, đổi mới phương thức hoạt động, thực hiện liên doanh, liên kết, đầu tư chiều sâu, áp dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật, mở rộng quy mô, đa dạng hoá  sản phẩm, sắp xếp lại tổ chức bộ máy, đẩy mạnh các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, do những khó khăn về giá cả, thời tiết không thuận lợi nên một số chỉ tiêu không đạt kế hoạch đề ra. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 15,1% (thấp hơn kế hoạch 0,9%) nhưng vẫn tăng gấp 3 lần so với năm 1994, GDP bình quân đầu người đạt 950 USD (tăng 30 USD so với kế hoạch), gấp 2,2 lần so với năm 1994. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XVII đề ra. Tỉ trọng giá trị công nghiệp - thương mại, dịch vụ - nông, lâm nghiệp trong GDP là 37%- 55,8%- 7,2% (chưa đạt kế hoạch đề ra). Giá trị sản xuất công nghiệp đạt 1.014,2 tỉ đồng, tăng 32% so với năm trước, trong đó công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp ngoài quốc doanh đạt 403,7 tỉ đồng, bằng 125% kế hoạch, tăng 37% so với năm trước. Giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 40 triệu USD, tăng 25% so với năm trước. Giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 153 tỉ đồng, bằng 102% kế hoạch, tăng 6,5% so với năm trước. Thu ngân sách trên địa bàn đạt 147,2 tỉ đồng, bằng 112% kế hoạch tỉnh giao, tăng 16% so với năm trước, nhưng chỉ đạt 60% kế hoạch của Thành phố.


. Sau Hội nghị này, ngày 29- 7-2004, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ ra Kết luận số 06-KL/TU Về tổ chức kỷ niệm 200 năm đô thị tỉnh lỵ, 10 năm thành lập Thành phố, công bố Quyết định nâng cấp Thành phố Thanh Hóa là đô thị loại II.

Bài phát biểu của Đồng chí Trương Quang Được, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Quốc hội tại Lễ mít tinh kỷ niệm 200 năm đô thị Thanh Hóa, 10 năm thành lập Thành phố, đón nhận Quyết định công nhận Thành phố Thanh Hóa là đô thị loại II và Huân chương Độc lập hạng Ba, tr.2

 

 

Trong công tác quy hoạch, quản lý đô thị, có nhiều công trình, hạng mục công trình được hoàn thành và đưa vào sử dụng trong dịp kỷ niệm 200 năm đô thị tỉnh lỵ, 10 năm thành lập Thành phố, đón nhận Quyết định của Thủ tướng chính phủ nâng cấp Thành phố là đô thị loại II và đón nhận Huân chương Độc lập hạng Ba. Bộ mặt đô thị khang trang, xanh hơn, sáng hơn, đẹp hơn. Tuy nhiên còn một chỉ tiêu quan trọng chưa thực hiện được. Tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản chỉ đạt 550 tỉ đồng, bằng 67% kế hoạch và 65% so với năm trước. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn những hạn chế, trong năm cấp được 6.000 giấy, nâng tổng số lên 26.500/43.000 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đạt 62%.

Công tác quy hoạch mở rộng không gian đô thị Thành phố đến năm 2020 được triển khai. Ngày 17-8-2004, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ ra Thông báo kết luận số 555- TB/TU về định hướng điều chỉnh quy hoạch chung mở rộng địa giới hành chính Thành phố Thanh Hóa đến năm 2020. Kết luận nêu rõ: Việc điều chỉnh quy hoạch chung và mở rộng địa giới hành chính Thành phố để tương xứng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của tỉnh đất rộng, người đông là cần thiết. Hướng mở rộng không gian Thành phố chủ yếu về phía đông, có thể nối liền với Thị xã Sầm Sơn, đồng thời nghiên cứu thêm một số xã ở các huyện lân cận, như Hoàng Hoá, Thiệu Hoá, Đông Sơn. Diện tích tự nhiên của Thành phố sau khi mở rộng là 10.000 ha trở lên. Trong quá trình quy hoạch cần xác định rõ các phân khu chức năng như: các khu dân cư, khu hành chính, khu trung tâm đào tạo, khu trung tâm thương mại, văn hoá, khu công nghiệp, khu du lịch,….và hệ thống giao thông, hạ tầng kĩ thuật.

Đây là chủ trương, định hướng quan trọng của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về mục đích ý, nghĩa và định hướng mở rộng Thành phố. Chủ trương này mở ra cơ hội to lớn cho công cuộc đẩy mạnh xây dựng và phát triển Thành phố ngày càng giàu đẹp, văn minh, hiện đại.

Hoạt động văn hoá- xã hội có nhiều khởi sắc, đặc biệt là các hoạt động tổ chức lễ kỷ niệm 200 năm đô thị tỉnh lỵ, 10 năm thành lập Thành phố, đón nhận Huân chương Độc lập hạng Ba và trở thành đô thị loại II. 

Trong giáo dục, chất lượng dạy và học được nâng lên; tình trạng dạy thêm, học thêm trái quy định giảm; chủ trương xã hội hoá giáo đáp ứng yêu cầu học tập của nhân dân. Thành phố tiếp tục giữ vững danh hiệu đơn vị dẫn đầu tỉnh về chất lượng giáo dục toàn diện.

Các cơ sở y tế thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, không để xảy ra dịch bệnh, đảm bảo việc khám chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân. Công tác truyền thông dân số, chăm sóc bà mẹ và trẻ em được quan tâm. Tỉ lệ phát triển dân số tự nhiên dưới 0,7%, đạt chỉ tiêu đề ra. Đội ngũ cán bộ y tế và cơ sở vật chất, thiết bị kĩ thật được tăng cường. Thành phố có thêm 4 trạm xá phường, xã đạt chuẩn quốc gia.

Các đối tượng chính sách được quan tâm, đời sống ổn định. Công tác xoá đói, giảm nghèo có nhiều tiến bộ, Thành phố chỉ còn 1.511 hộ nghèo, chiếm 3,56%. Theo Chỉ thị 08 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, các cấp, ngành tích cực thực hiện việc xoá nhà tranh tre nứa lá, tạm bợ, đã xây dựng ủng hộ 40 nhà nghèo, với tổng giá trị 415 triệu đồng.

Công tác quốc phòng - an ninh được bảo đảm. Thành phố thành lập Ban chỉ đạo giáo dục quốc phòng, hoàn thành kế hoạch tuyển quân và kế hoạch huấn luyện quân sự; thực hiện nghiêm chế độ trực sẵn sàng chiến đấu, tổ chức diễn tập khu vực phòng thủ, kết hợp với nhiệm vụ phòng chống lụt bão và tìm kiếm cứu nạn.

An ninh trên địa bàn được giữ vững, đặc biệt là công tác bảo đảm an toàn các ngày lễ lớn và các sự kiện của Thành phố. Lực lượng an ninh đã mở nhiều đợt cao điểm truy quét các loại tội phạm và tệ nạn xã hội, giữ gìn trật tự, an toàn giao thông, không để bọn tội phạm có tổ chức, lưu manh chuyên nghiệp, tội phạm theo kiểu xã hội đen hoạt động trên địa bàn Thành phố.

Ngay từ đầu năm 2004, các cấp uỷ đã tập trung chuẩn bị cho cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2004-2009. Trên cơ sở đó, cuộc bầu cử đã thành công tốt đẹp, số cử tri đi bầu đạt 99,4%. Các đơn vị bầu cử bầu đủ số đại biểu theo quy định, không có đơn vị phải bầu thêm, bầu bổ sung, trong đó: đại biểu Hội đồng nhân dân Thành phố 39 người, đại biểu Hội đồng nhân dân 18 phường, xã 461 người. Tỉ lệ đại biểu trúng cử là nữ và trẻ tuổi cao hơn khoá trước.

Sau bầu cử, Hội đồng nhân dân Thành phố và các phường, xã đã tổ chức kì họp thứ nhất, kiện toàn bộ máy của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, xây dựng quy chế hoạt động, chương trình công tác. Các chức danh được bầu tại kì họp thứ nhất Hội đồng nhân dân Thành phố và các phường, xã đều bảo đảm chất lượng, đúng với định hướng giới thiệu nhân sự của các cấp uỷ.

Tại kì họp thứ nhất Hội đồng nhân dân Thành phố nhiệm kỳ 2004-2009, đồng chí Hoàng Văn Hoằng được bầu làm Chủ tịch Hội đồng nhân dân; đồng chí Nguyễn Ngọc Hồi, Phó Bí thư Thành uỷ được bầu làm Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Thành phố.

Uỷ ban nhân dân các cấp tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chương trình cải cách nền hành chính quốc gia, trong đó tập trung cải cách thủ tục hành chính và chỉ đạo thực hiện các chương trình phát triển kinh tế -xã hội.

Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng và phát triển Thành phố. Mặt trận và các tổ chức chính trị-xã hội tập trung củng cố tổ chức bộ máy, kết nạp thêm 5.000 hội viên, đoàn viên mới; đã tổ chức nhiều cuộc thi, các cuộc vận động: Cán bộ làm công tác dân vận khéoToàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư; Ngày vì người nghèo; Ủng hộ xây dựng nhà cho người nghèo, xoá nhà tranh, tre nứa lá, tạm bợ ... được nhân dân Thành phố đồng tình ủng hộ. Riêng cuộc vận động ủng hộ xây dựng nhà cho người nghèo, xoá nhà tranh, tre nứa lá, tạm bợ, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức quần chúng đã quyên góp được 257 triệu đồng trong tổng số 415 triệu đồng.

Về công tác xây dựng Đảng, trong năm 2004, toàn Đảng bộ tập trung triển khai thực hiện các nghị quyết của Trung ương: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa IX  và Kết luận của Hội nghị Trung ương 10 khoá IX; sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII về tiếp tục xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; sơ kết 2 năm thực hiện Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị về công tác tư pháp...

Nhằm nâng cao nhận thức, trình độ lý luận cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, Thành uỷ đã phối hợp tổ chức 17 lớp đào tạo-bồi dưỡng cho 892 học viên, trong đó có 1 lớp trung cấp lí luận. Thông qua các hội nghị quán triệt nghị quyết, sơ kết, tổng kết việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, của Tỉnh và Thành phố, trình độ nhận thức về chính trị của cán bộ, đảng viên được nâng lên, tư tưởng ổn định, góp phần tăng cường, củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng bộ.

Công tác tổ chức, cán bộ tập trung hướng về cơ sở nhằm xây dựng tổ chức Đảng trong sạch vững mạnh. Các cấp uỷ thường xuyên theo dõi việc đảng viên và tổ chức Đảng chấp hành Điều lệ Đảng, quản lý đảng viên, duy trì sinh hoạt chi bộ, thực hiện đấu tranh tự phê bình và phê bình nhằm nâng cao sức chiến đấu của Đảng. Đồng thời các cấp uỷ tổ chức nghiêm túc việc đổi thẻ đảng cho đảng viên. Toàn Đảng bộ có 10912/11373 đảng viên được đổi thẻ. Trong năm, thành lập mới 4 chi bộ cơ sở, nâng tổng số lên 105 đảng bộ, chi bộ cơ sở, trong đó có 67 đảng bộ, 38 chi bộ cơ sở. Các chi bộ tổ chức kết nạp thêm 266 đảng viên mới, trong đó 60 % đảng viên trẻ và 70% có trình độ đại học.

Các cấp uỷ làm tốt công tác giới thiệu người ra ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân và các chức danh chủ chốt của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân Thành phố, phường, xã, bảo đảm chất lượng, đúng quy trình và đúng luật. Ban Thường vụ Thành uỷ giới thiệu để Ủy ban nhân dân Thành phố bổ nhiệm 7 cán bộ giữ các chức vụ: trưởng, phó phòng, ban, ngành, đoàn thể của Thành phố; thoả thuận với với các ngành của tỉnh bổ nhiệm lại 11 cán bộ và điều động 3 cán bộ thuộc các ngành chuyên môn; cử 11 cán bộ trong diện quy hoạch đi học cao cấp lí luận chính trị, 6 cán bộ dự thi cao học; mở lớp cho 101 cán bộ Thành phố và phường, xã tham gia khoá học trung cấp lí luận chính trị tại Thành phố; luân chuyển và điều động 8 cán bộ Thành phố tăng cường cho 5 phường và 1 xã.

Công tác kiểm tra đã kịp thời xử lí 159 đơn, thư khiếu nại, tố cáo của đảng viên và công dân. Nội dung đơn, thư tập trung tố cáo các hành vi vi phạm trong xây dựng cơ bản, quản lý đất đai và về phẩm chất, năng lực của một số cán bộ đảng viên. Những đơn, thư chủ yếu trong thời gian chuẩn bị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Qua kiểm tra, có 45 đảng viên bị xử lí kỷ luật, trong đó: khiển trách 37, cảnh cáo 5, khai trừ 3.

Những kết quả đạt được trên tất cả các mặt kinh tế - xã hội, quốc phòng- an ninh và xây dựng Đảng trong năm 2004 tạo đà cho Đảng bộ và nhân dân Thành phố Thanh Hóa tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XVII, hoàn thành những nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm 2001-2005.

Thực hiện những chủ trương và biện pháp đề ra, trong năm 2005, năm kết thúc nhiệm kỳ Đảng bộ thành phố khoá XVII, năm cuối của kế hoạch 5 năm 2001-2005, Đảng bộ và nhân dân Thành phố đã nỗ lực phấn đấu vươn lên giành nhiều thành tích trên các lĩnh vực, tổ chức thành công đại hội đảng bộ cơ sở và Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XVIII.

Về phát triển kinh tế, với quyết tâm lập thành tích chào mừng đại hội Đảng các cấp, ngay từ đầu năm các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế đã nỗ lực vươn lên, chủ động triển khai thực hiện các giải pháp phát triển kinh tế do Ban Thường vụ Thành uỷ đề ra, như: chủ động tìm kiếm thị trường, thực hiện đa dạng hoá sản phẩm, tăng cường liên doanh, liên kết, đầu tư công nghệ mới, hiện đại, tổ chức hợp lí hoá bộ máy của doanh nghiệp, đơn vị sản xuất, kinh doanh, động viên, cổ vũ sự năng động, sáng tạo của người lao động, tạo phong trào thi đua sôi nổi trong sản xuất, kinh doanh, đồng thời phát triển thêm 205 doanh nghiệp mới, cấp mới đăng kí kinh doanh cho 1.237 hộ, nâng tổng số hộ đăng kí kinh doanh lên 6.798 hộ.

Với những giải pháp đồng bộ đó, kinh tế của Thành phố tiếp tục tăng trưởng cao, tổng giá trị tăng thêm 1.597 tỉ đồng, GDP đạt 16,1%, đạt kế hoạch đề ra (tăng trên 16%); mức tăng trưởng kinh tế của Thành phố trung bình 5 năm (2001-2005) là 15,3%, cao hơn mức tăng bình quân của tỉnh là 9,1% và của cả nước là 7,5%

 Ngày 14-11-2008, Kì họp thứ tư, Quốc hội khoá XII ra  Nghị quyết số 25/2008/QH12 về việc kéo dài nhiệm kỳ hoạt động 2004 – 2009 của Hội đồng nhân các cấp đến 2011

GDP bình quân đầu người đạt 1.100 USD, vượt kế hoạch đề ra, tăng 2,5 lần so với năm 2000 và gấp 3,3 lần so với bình quân chung của cả tỉnh. Tỉ trọng giá trị công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp trong GDP là 50,9% - 42,4% - 6,7%. Tổng mức bán lẻ lĩnh vực dịch vụ, thương mại đạt 1241 tỉ đồng, bằng 103,8% kế hoạch, tăng 15,9% so với năm trước; giá trị sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh đạt 601,2 tỉ đồng, bằng 120,2% kế hoạch, tăng 25% so với năm trước; giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 162 tỉ đồng, bằng 101,2% kế hoạch, tăng 4,8% so với năm trước; giá trị xuất khẩu đạt 32 triệu USD; tổng thu ngân sách đạt hơn 203 tỉ đồng, bằng 103% kế hoạch tỉnh giao, tăng 39% so với năm trước, nhưng mới đạt 96% dự toán của Thành phố; tổng chi ngân sách đạt 151,9 tỉ đồng, bằng 109 % kế hoạch đề ra.

Trong quy hoạch, xây dựng và quản lý đô thị, năm 2005, Thành phố bước đầu triển khai quy hoạch điều chỉnh mở rộng không gian phát triển đô thị, hoàn thành một số quy hoạch chi tiết. Các công trình xây dựng trọng điểm chào mừng Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI được hoàn thành đúng tiến độ. Công tác vệ sinh môi trường được tăng cường, bộ mặt đô thị ngày càng khang trang hơn. Tiếp tục quan tâm công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tổng số giấy chứng nhận đã cấp là 30.481 giấy, đạt 73%.

Thành phố tiếp tục dẫn đầu tỉnh về chất lượng giáo dục. Trong năm, có thêm 6 trường thuộc các cấp học đạt chuẩn quốc gia, nâng tổng số trường đạt chuẩn quốc gia lên 21/66 trường. Thành lập mới 6 trung tâm học tập cộng đồng,  đã có 100% số phường, xã có trung tâm học tập cộng đồng. Công tác khuyến học tiếp tục được các cấp, các ngành và nhân dân nhiệt tình ủng hộ. Toàn Thành phố có gần 12 nghìn học sinh có thành tích được nhận các phần quà động viên, trong đó có 500 học sinh nghèo vượt khó, với tổng giá trị 500 triệu đồng.

Các hoạt động văn hóa tập trung vào việc tuyên truyền các ngày lễ lớn và Đại hội Đảng các cấp. Trong năm có thêm 20 phố, làng văn hóa, cơ quan văn minh, 134 đơn vị đạt danh hiệu văn hóa cấp Thành phố và cấp Tỉnh. Hoạt động thể dục thể thao phát triển, tổ chức thành công Đại hội thể dục thể thao Thành phố.

Công tác y tế được bảo đảm, các cơ sở khám chữa bệnh thực hiện tốt việc khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, không để xảy ra dịch bệnh trên địa bàn. Hoạt động tuyên truyền về dân số, kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc bà mẹ và trẻ em đạt hiệu quả cao. Tỉ lệ phát triển dân số tự nhiên đạt 0,7%, tỉ lệ người sinh con thứ ba giảm  1,5%, tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng giảm 1,2% so với năm trước.

Các vấn đề xã hội được quan tâm, như: giải quyết việc làm cho 9.000 lao động, tạo điều kiện cho 123 lao động ra nước ngoài làm việc. Công tác xoá đói giảm nghèo được triển khai tích cực hơn, tỉ lệ hộ nghèo còn 8,91%, giảm 1,36% so với năm trước. Đó là những thành quả thiết thực chào mừng Đại hội Đảng các cấp và Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XVIII.

Những chủ trương, định hướng lớn nhằm phát huy tiềm năng, thu hút nguồn lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá

Quá trình tiến hành đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân.

Nhằm chuẩn bị tốt công tác nhân sự đại hội Đảng các cấp, ngày 13-1-2005, Thường vụ Tỉnh ủy ra Kế hoạch số 37-KH/TU về kiểm điểm tự phê bình và phê bình đối với cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ lãnh đạo, quản lý năm 2004. Tiếp đó, ngày 19-5-2005, Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Kế hoạch số 41-KH/TU về nhận xét đánh giá cấp ủy viên đương nhiệm phục vụ chuẩn bị nhân sự cấp ủy.

Ban Thường vụ Tỉnh ủy chọn Đảng bộ Thành phố là đơn vị đại hội điểm của Tỉnh. Đây là vinh dự đồng thời cũng là trách nhiệm của Đảng bộ và nhân dân Thành phố trong quá trình tổ chức đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X.

Thực hiện Chỉ thị 46 của Bộ Chính trị và các kế hoạch của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, trong quý I năm 2005, Ban Thường vụ Thành ủy đã hoàn chỉnh kế hoạch chỉ đạo đại hội Đảng bộ, chi bộ nhiệm kỳ 2005-2010, coi đây là nhiệm vụ hàng đầu trong chương trình công các năm 2005.

Trong quá trình tiến tới đại hội Đảng bộ, chi bộ cơ sở, các đơn vị đã tập trung sơ kết, tổng kết một số chỉ thị, nghị quyết về những chủ trương lớn của Đảng; tổ chức tuyên truyền về những thành tựu đạt được, đồng thời phát động các phong trào thi đua yêu nước trong toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Sau khi tổ chức đại hội điểm tại 4 đơn vị trong tháng 6 - 2005, Thường vụ Thành ủy tổ chức rút kinh nghiệm đề chỉ đạo đại hội trên diện rộng. Trong tháng 7 và tháng 8 năm 2005, các tổ chức cơ sở Đảng trực thuộc đã tổ chức thành công đại hội ở cấp mình.

Từ ngày 5 đến ngày 9 - 9 - 2005, Đại hội Đảng bộ Thành phố khóa XVIII, nhiệm kỳ 2005-2010 được tổ chức trọng thể tại Hội trường Thành ủy. Đây là đại hội Đảng bộ cấp Thành phố, huyện thị xã đầu tiên của tỉnh Thanh Hóa.

Dự Đại hội có 250 đại biểu, đại diện cho hơn 11.000 đảng viên của 103 tổ chức cơ sở Đảng trong Đảng bộ. Đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ tới dự và trực tiếp chỉ đạo Đại hội.

Phát biểu khai mạc Đại hội, đồng chí Hoàng Văn Hoằng, Bí thư Thành uỷ khẳng định: qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XVII, Đảng bộ và nhân dân Thành phố đã giành được những thành tựu to lớn có ý nghĩa rất quan trọng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh- quốc phòng. Đồng chí nhấn mạnh chủ đề Đại hội Đảng bộ là: Đại hội của trí tuệ, dân chủ, đoàn kết và đổi mới.

Đại hội nghe và thảo luận Báo cáo chính trị, Báo cáo kiểm điểm của Ban Chấp hành Đảng bộ khoá XVII, Báo cáo kết quả 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) và cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Báo cáo tổng hợp ý kiến của Đảng bộ Thành phố tham gia vào các dự thảo văn kiện của Trung ương trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X và Báo cáo chính trị của Tỉnh uỷ trình Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI.

Báo cáo chính trị khẳng định: Nhiệm kỳ 2001-2005, Đảng bộ và nhân dân Thành phố đã đạt được những thành tích quan trọng, vượt nhiều mục tiêu nhiệm vụ đề ra.

Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng tỉ trọng công nghiệp - dịch vụ, giảm tỉ trọng nông nghiệp. Doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh tăng nhanh. Dịch vụ - thương mại phát triển và đang phát huy thế mạnh của đô thị, khai thác có hiệu quả quỹ đất và các nguồn lực trong xã hội cho đầu tư phát triển; GDP bình quân đầu người tăng và gấp 2,5 lần so với bình quân chung của cả Tỉnh.

Văn hoá xã hội có nhiều chuyển biến tiến bộ, trình độ dân trí, nếp sống văn minh đô thị từng bước được nâng lên, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày một nâng cao, an  ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. 

       

Với những kết quả đạt được, Thành phố Thanh Hoá vinh dự được Chủ tịch Nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Ba; Thủ tướng Chính phủ quyết định công nhận Thành phố Thanh Hoá là đô thị loại II.

Bên cạnh những thành tựu đạt được, Đại hội chỉ ra những hạn chế, yếu kém, đồng thời nêu rõ những nguyên nhân chủ quan và khách quan của những hạn chế, yếu kém trong hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ.

Đại hội đề ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ của nhiệm kỳ 2005-2010. Về phương hướng chung, đó là: Khai thác có hiệu quả tiềm năng thế mạnh của đô thị tỉnh lỵ, tạo sức bật mới để tăng tốc phát triển nhanh và bền vững; đẩy mạnh thu hút đầu tư, xác định rõ các chương trình và các công trình trọng điểm để tập trung đầu tư có hiệu quả; chăm lo phát triển văn hoá xã hội, xây dựng ý thức văn minh đô thị làm nền tảng tinh thần cho phát triển toàn diện, giữ vững kỉ cương, làm tốt công tác cán bộ, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; mở rộng dân chủ, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, phấn đấu trở thành đô thi loại I vào năm 2015.

Về kinh tế, GDP trên địa bàn tăng bình quân từ 20% trở lên. Tổng giá trị gia tăng năm 2010 gấp hơn 2 lần so với năm 2005; GDP bình quân đầu người đến năm 2010 đạt 2.200 USD. Cơ cấu kinh tế trong GDP năm 2010: dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp có tỉ trọng 50% - 45,6% - 4,4%

Tốc độ tăng thu ngân sách hàng năm 20% trở lên. Tổng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn trong năm đạt 12.500 tỉ đồng. Giá trị xuất khẩu đến năm 2010 đạt 80-100 triệu USD.

Về văn hóa-xã hội, tỉ lệ tăng dân số tự nhiên dưới 0,7%. Đến năm 2010 tạo việc làm mới cho 50000-55000 lao động. Tỉ lệ lao động được đào tạo đến năm 2010 đạt 60%. Giảm tỉ lệ hộ nghèo mỗi năm từ 1,5- 2%; tỉ lệ trẻ suy dinh dưỡng xuống dưới 8%; tỉ lệ thất nghiệp giảm xuống 2%. Số phố, làng được công nhận danh hiệu đơn vị văn hoá cấp Thành phố đạt 80%.

Về xây dựng Đảng, hàng năm số tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh đạt 80%.

Đại hội đề ra các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện thắng lợi những mục tiêu trên.

Phát biểu tại Đại hội, đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ khẳng định những thành tựu của Đảng bộ Thành phố trong nhiệm kỳ 2001-2005, đồng thời nêu ra những nhiệm vụ nhằm đẩy nhanh tốc độ phát triển Thành phố trong những năm tiếp theo: Là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của Tỉnh, một địa bàn quan trọng và nhạy cảm về chính trị- xã hội, Thành phố có khả năng vừa tạo ra năng lực nội sinh to lớn, vừa thu hút nguồn lực và tụ hội nhân tài từ nhiều nơi. Vì vậy, Thành phố phải phát triển nhanh, mạnh, vững chắc, phấn đấu đi trước và về đích trước trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá, phấn đấu trở thành đô thị loại I vào năm 2015.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố khoá XVIII, nhiệm kỳ 2005-2010 gồm 39 đồng chí. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố khoá XVIII bầu Ban Thường vụ gồm 11 đồng chí; bầu Bí thư và các Phó Bí thư. Đồng chí Hoàng Văn Hoằng được bầu lại làm Bí thư; đồng chí Nguyễn Văn Ngọc làm Phó Bí thư thường trực và đồng chí Nguyễn Ngọc Hồi làm Phó Bí thư (Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố).

Đại hội bầu Đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XV gồm 21 đại biểu chính thức.

Đại hội kêu gọi toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân Thành phố phát huy truyền thống đoàn kết, kỷ cương, năng động, sáng tạo và vị thế của đô thị tỉnh lỵ, quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố khoá XVIII, nhiệm kỳ 2005-2010, xây dựng Thành phố ngày càng giàu mạnh, hiện đại, văn minh.

  

II. ĐẨY NHANH TỐC ĐỘ  PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI

Xác định rõ phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu của Thành phố sau 15 năm lãnh đạo thực hiện đường lối đổi mới của Đảng

Đầu thế kỉ XXI, tình hình quốc tế, trong nước và Tỉnh Thanh Hóa có nhiều thời cơ thuận lợi. Tỉnh Thanh Hóa đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả các mặt về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, xây dựng Đảng. Tỉnh có nhiều chủ trương đúng đắn trong việc phát triển kinh tế- xã hội, đặc biệt là chủ trương tập trung phát triển các vùng kinh tế trọng điểm ở các đô thị, trung tâm công nghiệp.

Sau 15 năm thực hiện công cuộc đổi mới, tiếp tục phát huy những thế mạnh về vị trí địa lý, tài nguyên đất đai, sức lao động và tiềm năng về vốn, khoa học công nghệ, thị trường để phát triển kinh tế-xã hội với tốc độ nhanh hơn, Thành phố Thanh Hóa đã có bước phát triển toàn diện và vững chắc trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa- xã hội, quốc phòng- an ninh, đời sống nhân dân không ngừng được nâng lên, cơ sở hạ tầng đô thị được đầu tư xây dựng, bộ mặt đô thị ngày càng khang trang.

Thực hiện Chỉ thị số 54-CT/TW, ngày 22-5- 2000 của Bộ Chính trị về việc tiến hành đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, những tháng cuối năm 2000, các cơ quan, đơn vị, cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân Thành phố Thanh Hóa đã hăng hái thi đua lao động, sản xuất lập nhiều thành tích suất sắc chào mừng đại hội đảng các cấp cấp, tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX.

Sau khi hoàn thành Đại hội Đảng bộ, chi bộ cơ sở, từ ngày 11 đến ngày 13 tháng 12 năm 2000, Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2001-2005, được tổ chức trọng thể. Dự đại hội có 180 đại biểu, thay mặt cho hơn mười ngàn đảng viên sinh hoạt tại 103 đảng bộ, chi bộ cơ sở. Đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ Thanh Hóa tới dự và chỉ đạo Đại hội.

Đánh giá những kết quả đạt được trong 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XVI, Đại hội khẳng định Đảng bộ và nhân dân Thành phố đạt được những thành tựu quan trọng: Giữ vững sự ổn định chính trị trên địa bàn, công cuộc đổi mới được đẩy mạnh, kinh tế tiếp tục phát triển và có bước tăng trưởng khá. Sức hút của đô thị tỉnh lỵ đã tăng lên. Cơ sở hạ tầng kĩ thuật đô thị được tập trung đầu tư và có bước phát triển vượt bậc. Các lĩnh vực văn hóa- xã hội có tiến bộ và ngày càng được xã hội hóa, trình độ dân trí nâng lên, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Trật tự an toàn xã hội cơ bản bảo đảm, vai trò của hệ thống chính trị được củng cố và phát huy tốt hơn. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng được phát huy.

Đại hội chỉ ra những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân của những khuyết điểm, yếu kém, trên cơ sở đó rút ra một số bài học kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo của Đảng bộ Thành phố:

Một là, quan tâm làm tốt công tác tư tưởng, đặc biệt phải ổn định tư tưởng nội bộ. Chú trọng thông tin có định hướng đến cán bộ, đảng viên và nhân dân để nâng cao nhận thức, tạo sự thống nhất tư tưởng và hành động. Đồng thời quan tâm thực hiện dân chủ nội bộ, phát hiện và xử lí kịp thời những vấn đề nảy sinh. Xây dựng sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng, trong lãnh đạo ngày càng cao, giữ vững ổn định chính trị.

Hai là, phải xác định đúng vai trò, vị trí của một đô thị trung tâm đầu não của tỉnh. Thực sự đổi mới phương thức lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của cấp ủy, chính quyền các cấp. Nhận thức đúng đắn, đầy đủ chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào tình hình thực tế của Thành phố. Quá trình tổ chức chỉ đạo thực hiện phải đồng bộ và kiên quyết; bám sát từng mục tiêu và kiên trì lãnh đạo thực hiện. Có sự phân công, phân nhiệm rõ ràng đối với tập thể và cá nhân. Thường xuyên kiểm tra, đôn đốc và đánh giá, động viên cán bộ, đảng viên kịp thời.

Ba là, luôn coi trọng công tác cán bộ, xác định cán bộ là khâu trọng yếu nhất. Quan tâm đồng bộ công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và xem xét, đánh giá, sử dụng cán bộ. Thực hiện tốt việc luân chuyển, tiêu chuẩn hóa, trẻ hóa cán bộ và chính sách cán bộ, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, kiên quyết thay thế những cán bộ năng lực yếu kém, thiếu trách nhiệm. Phải thực sự xuất phát từ đòi hỏi của công việc để bố trí cán bộ, vì sự nghiệp chung, vì sự phát triển của địa phương, đơn vị và phải thực sự khách quan thì mới lựa chọn, xây dựng được đội ngũ cán bộ tốt.

Bốn là, quan tâm chăm lo bảo đảm lợi ích chính đáng và hợp pháp của quần chúng nhân dân. Động viên và phát huy truyền thống cách mạng của địa phương, tổ chức tập hợp và phát động quần chúng tham gia các phong trào, đồng thời có các cơ chế, chính sách khuyến khích để khai thác được tiềm năng to lớn trong nhân dân, nhằm thực hiện thành công chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Năm là, tranh thủ sự lãnh đạo, đồng tình ủng hộ, giúp đỡ của cấp trên, của các ngành, của bạn bè đối với Thành phố, coi đó là cơ sở quan trọng để thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế -xã hội của địa phương.

Trên cơ sở phân tích sâu sắc ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm, hướng tới kỷ niệm 200 năm đô thị tỉnh lỵ, 10 năm thành lập Thành phố, Đại hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu trong nhiệm kỳ 2001-2005: “Phát huy cao độ truyền thống, những tiềm năng về vốn, lao động, trí tuệ và khoa học kĩ thuật; tiếp tục đổi mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tập trung đầu tư phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng, tăng cường quản lý đô thị, tiến hành có trọng tâm, trọng điểm và có hiệu quả. Từng bước giải quyết tốt các vấn đề bức xúc về văn hóa- xã hội, trọng tâm là xây dựng nền văn hóa mới, giải quyết việc làm và tệ nạn xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Củng cố quốc phòng-an ninh, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo trật tự- an toàn xã hội. Tiếp tục thực hiện xây dựng chỉnh đốn Đảng, đẩy mạnh và thực hiện có hiệu quả quy chế dân chủ ở cơ sở, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Phấn đấu năm 2001, Đảng bộ Thành phố đạt và giữ danh hiệu “Đảng bộ trong sạch, vững mạnh”; đến năm 2005, Thành phố được nâng cấp lên đô thị loại 2”.

Đại hội xác định rõ những mục tiêu cụ thể trên các lĩnh vực.

Về kinh tế: Phấn đấu tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân hàng năm đạt 15- 16%; GDP bình quân đầu người đến năm 2005 đạt 1000 USD trở lên. Cơ cấu kinh tế: Công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp có tỉ trọng: 38% - 57% - 5%; tốc độ phát triển bình quân hàng năm của các ngành kinh tế chủ yếu: công nghiệp: 14-15%, dịch vụ: 12-13%; nông nghiệp: 5-6%. Tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn đạt 400 tỉ đồng/năm; hoàn thành một số dự án lớn như: Dự án cấp nước Thanh Hóa - Sầm Sơn; cải tạo mạng lưới điện, cải tạo hệ thống thoát nước bằng vốn ODA; bãi chứa và xử lí rác thải, dự án cải tạo và nâng cấp kênh Vinh, kênh Nhà Lê; cơ sở hạ tầng khu văn hóa - du lịch Hàm Rồng và xây dựng một số khu chung cư, khu dân cư mới.

Về văn hóa- xã hội: Duy trì phổ cập tiểu học đúng độ tuổi, sớm hoàn thành phổ cập trung học cơ sở, từng bước tiến hành phổ cập trung học phổ thôngTỉ lệ lao động được đào tạo đến năm 2005 đạt 45% trở lênTiếp tục hạ tỉ lệ phát triển dân số tự nhiên dưới mức 0,8%. Tốc độ đô thị hóa bình quân hằng năm đạt 5% trở lên. Giảm tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng xuống dưới 15%. Đến năm 2005, giảm tỉ lệ hộ nghèo còn dưới 2%, lao động thất nghiệp còn dưới 4%. Đến năm 2005, tỉ lệ gia đình văn hóa đạt 80% trở lên; 70% trở lên khu phố, làng khai trương xây dựng đơn vị văn hóa; phấn đấu 60-70% số cơ quan văn hóa

Về xây dựng Đảng: Trung bình hằng năm 80% trở lên số đảng bộ, chi bộ cơ sở đạt danh hiệu trong sạch vững mạnh. Xây dựng hệ thống chính quyền và các đoàn thể vững mạnh.

Đại hội bầu Ban Chấp hành khóa XVII, nhiệm kỳ 2001 - 2005, gồm 33 đồng chí. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố bầu Ban Thường vụ gồm 11 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Đức Thắng được bầu làm Bí thư Thành ủy; các đồng chí Nguyễn Văn Ngọc, Bùi Tường Hỷ được bầu làm Phó Bí thư. Đại hội bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XV gồm 22 đại biểu chính thức và 2 đại biểu dự khuyết.

Đại hội kêu gọi toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân Thành phố phát huy truyền thống 55 xây dựng và trưởng thành của Đảng bộ, kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XVII.

Ngay sau Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XVII, từ ngày 2 đến ngày 5- 1-2001, đã diễn ra Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XV. Phát huy những thành tựu quan trọng bước đầu đạt được, trên cơ sở đánh giá những ưu điểm và hạn chế, khó khăn, căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của địa phương sau 15 năm đổi mới, Đại hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu trong 5 năm 2001-2005: “Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, tăng tốc độ phát triển, phấn đấu đạt và vượt chỉ tiêu trên các lĩnh vực, phát huy nội lực, khai thác có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển, đặc biệt là nguồn nhân lực, ưu tiên đầu tư phát triển các ngành, các lĩnh vực có nhiều tiềm năng, lợi thế của tỉnh, đáp ứng yêu cầu thị trường; tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp, hiện đại hóa, đảm bảo tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao và bền vững; nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh, tích cực chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với giải quyết tốt những vấn đề xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, từng bước thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng-an ninh, giữ vững ổn định chính trị. Xây dựng Đảng, chính quyền Mặt trận và các đoàn thể trong sạch, vững mạnh”.

Tháng 4 năm 2001, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng chủ trương phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, vì mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh; khẳng định phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đại hội đề ra chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001 – 2010) với mục tiêu tổng quát đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Việc tổ chức thành công Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng và Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ XV, Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XVII với những định hướng lớn là cơ sở, nền tảng quan trọng để Đảng bộ và nhân dân Thành phố Thanh Hóa quyết tâm xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, văn minh.

Phát huy các nguồn lực, đẩy nhanh tốc độ xây dựng Thành phố theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Để đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống, Ban Thường vụ Thành uỷ xác định Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX của Đảng bộ gồm 10 chương trình chủ yếu:

Chương trình đẩy mạnh thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Chương trình đẩy mạnh phát triển công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp 

Chương trình đẩy mạnh tăng thu ngân sách và thực hành tiết kiệm chi.

Chương trình phát triển và quản lý đô thị.

Chương trình khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh dịch vụ và giải quyết việc làm.

Chương trình phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo, nâng cao dân trí, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

Chương trình phát triển văn hoá - xã hội.

Chương trình tăng cường công tác quốc phòng - an ninh và đẩy mạnh phòng chống tội phạm và các tệ nạn xã hội.

Chương trình tiếp tục xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Chương trình chỉ đạo điểm, kiểm tra, thanh tra, sơ kết, tổng kết.

Ngay từ đầu năm 2001, Ban Thường vụ Thành uỷ đã cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XVII thành các nhiệm vụ trọng tâm của thành phố: Tập trung đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá. Tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng, đồng thời giải quyết tốt vấn đề xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Giữ vững an ninh chính trị- trật tự an toàn xã hội. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, đẩy lùi và ngăn chặn có hiệu quả tệ nạn xã hội và tội phạm. Tiếp tục thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) và cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh.

Để đạt được các nhiệm vụ trọng tâm đó, Ban Thường vụ Thành uỷ đề ra các nhiệm vụ cụ thể đối với tất cả các lĩnh vực phát triển kinh tế -xã hội, quốc phòng, an ninh, xây dựng và quản lý đô thị, xây dựng Đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân dân.

Về kinh tế: Đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm, tích cực, chủ động hội nhập thị trường khu vực và quốc tế; đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá các doanh nghiệp và thực hiện bán, khoán, cho thuê, giải thể doanh nghiệp theo quy định của Nhà nước. Tiếp tục phát triển doanh nghiệp ngoài quốc doanh; khôi phục và phát huy các ngành nghề truyền thống; đẩy mạnh công nghiệp chế biến nông, lâm, hải sản. Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, phấn đấu đưa giống lúa mới và lúa lai đạt 50% diện tích gieo cấy.

Về xây dựng và quản lý đô thị: Tăng cường công tác quản lý xây dựng đô thị; hoàn chỉnh quy hoạch chi tiết các khu vực trong thành phố và quy hoạch một số khu đô thị mới; nâng cấp một số tuyến đường ở các khu dân cư bị xuống cấp, xây dựng đồng bộ hệ thống thoát nước, vỉa hè, cây xanh các tuyến nội thành; vận động nhân dân tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng kĩ thuật theo hướng dẫn của Thành phố; hoàn thành dự án xây dựng Khu tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh và các khu di tích khác; đẩy mạnh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nhân dân, giải quyết dứt điểm tình trạng lấn chiếm lòng, lề đường, vỉa hè,…Đẩy mạnh việc thực hiện xây dựng thành phố xanh, sạch, đẹp.

Về văn hoá-xã hội: Tiếp tục thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở; từng bước chuyển một số trường trung học cơ sở sang loại hình ngoài công lập; nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện và mũi nhọn, giáo dục văn hoá với dạy nghề và kiến thức về phòng chống ma tuý và an toàn giao thông; chấm dứt việc dạy thêm và học thêm ngoài nhà trường. Đẩy mạnh phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá. Mở rộng các hoạt động thể dục thể thao, đa dạng hoá các loại hình hoạt động, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia. Tăng cường công tác chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân, giảm số người sinh con thứ ba trở lên, giảm tỉ lệ tăng dân số tự nhiên mức dưới 0,8%, hạ tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng xuống 18%; thực hiện tốt chính sách xã hội về giải quyết việc làm và xoá đói giảm nghèo, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.

Về xây dựng Đảng: Thực hiện tốt việc tuyên truyền về thành công của đại hội Đảng bộ các cấp và Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX. Các cấp, các ngành, các đơn vị cụ thể hoá việc thực hiện nghị quyết của Đảng bằng các chương trình hành động và công tác cụ thể; tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) và cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng; làm tốt công tác quy hoạch, bồi dưỡng, bố trí, sắp xếp đội ngũ cán bộ; đẩy mạnh thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.

Về xây dựng chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể: Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính theo mô hình “một cửa”, nâng cao hiệu quả quản lý của bộ máy Nhà nước; sắp xếp lại bộ máy tổ chức và bố trí cán bộ theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 7 (khoá VIII); nâng cao chất lượng hoạt động của Uỷ ban nhân dân, Hội đồng  nhân dân và các cơ quan chức năng, các đơn vị trực thuộc Thành phố.

Kiện toàn tổ chức Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; đẩy mạnh các phong trào thi đua, đặc biệt là phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”.

Triển khai thực hiện các mục tiêu đề ra, ngay trong năm đầu tiên thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XVII, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV và Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Thành phố Thanh Hóa đã giành được nhiều kết quả quan trọng, hoàn thành vượt mức tất cả các chỉ tiêu đề ra. Kinh tế tiếp tục phát triển khá và tương đối toàn diện trong tất cả các ngành, các lĩnh vực.

Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tăng trưởng cao. Thành phố từng bước triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước.Các doanh nghiệp nhà nước sau khi được cổ phần hoá có bước phát triển tốt như Công ty cổ phần nước mắm Thanh Hương, Phân lân Hàm Rồng, Cơ khí giao thông,… Khu công nghiệp Lễ Môn đã thu hút được nhiều doanh nghiệp đăng kí đầu tư; dự án khu công nghiệp vừa và nhỏ ở Tây Bắc ga, đẩy mạnh xây dựng cơ sở hạ tầng. Công nghiệp ngoài quốc doanh xuất hiện nhiều mô hình sản xuất, kinh doanh có hiệu quả cao.

Trong nông nghiệp, các xã ngoại thành gieo cấy 5817 ha (trong đó có 198 ha lúa chất lượng cao, 966 ha lúa lai. Đây là diện tích lúa lai lớn nhất so với những năm trước đó), đạt 100% kế hoạch, năng suất đạt 46,3 tạ/ha, sản lượng lương thực đạt 21.917 tấn. Bên cạnh đó, nhân dân đã tích cực chuyển đổi, mở rộng diện tích trồng hoa, cây cảnh lên 58 ha, tăng 79% so với năm 2000. Tuy nhiên, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hoá còn chậm, đầu tư giống cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao chưa được chú trọng. Do đó, giá trị tạo ra trên đơn vị diện tích còn thấp, chưa có các mô hình làm ăn lớn. Trong chăn nuôi, tổng đàn trâu, bò gồm 2.806 con, giảm 6,1% so với năm 2000, đàn lợn 28.000 con, gia cầm 235.055 con tăng 8,4% so với năm 2000.

Các ngành dịch vụ tiếp tục tăng trưởng khá. Dịch vụ vận tải tăng cả về số lượng vận tải và phương tiện. Toàn ngành đã vận chuyển đạt 1.418 ngàn tấn hàng hoá, tăng 7,6% so với năm 2000, khối lượng luân chuyển hàng hoá đạt 107.500 ngàn tấn/km, tăng 7,5% so với năm 2000; khối lượng vận chuyển hành khách đạt 1650 ngàn lượt người, tăng 12% so với năm 2000, khối lượng luân chuyển hành khách đạt 110.000 ngàn lượt người/km, tăng 11% so với năm 2000. Dịch vụ thương mại phát triển, hàng hoá phong phú, đa dạng, giá cả ổn định, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân và phục vụ sản xuất. Thu chi ngân sách vượt kế hoạch tỉnh giao. Tổng thu đạt 42.778 triệu đồng, tăng 31% so với kế hoạch tỉnh giao và tăng 11% so với năm 2000. Kết quả đó đã bảo đảm được các khoản chi cho hoạt động thường xuyên của Thành phố, đồng thời giành một phần đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đô thị. Tổng chi đạt 46.543 triệu đồng, tăng 52% so với kế hoạch tỉnh giao và tăng 39% so với năm trước .

Trong công tác quản lý đô thị, đã tập trung lập quy hoạch và quản lý quy hoạch. Đến cuối năm 2001, Thành phố đã hoàn thành việc quy hoạch chi tiết Khu Trung tâm, Khu Nam trung tâm, xã Đông Hương, phường Đông Sơn, xã Quảng Thắng, phường Đông Vệ, Khu Đô thị mới Đông Bắc ga, Khu dân cư Mai Xuân Dương, Khu Văn hoá trung tâm Thành phố. Việc triển khai thi công các công trình xây dựng bảo đảm chất lượng và mỹ quan Thành phố. Nhiều tuyến phố được chỉnh trang, nhiều khu đô thị mới hiện đại được hình thành. Nhiều công trình được hoàn thành đúng tiến độ và đưa vào sử dụng có ý nghĩa xã hội sâu sắc, như: Khu văn hoá tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh, Công viên Hồ Thành khu vực I, Khu chứa và xử lý rác thải, đường Đội Cung, đường Minh Khai, Trường Trung học cơ sở Điện Biên và nhiều trường học, trạm y tế ở các phường, xã. Tiếp tục xây dựng công trình đại lộ Lê Lợi kéo dài, Hồ Thành khu vực III; các tuyến đường: Đào Duy Từ, Lê Phụng Hiểu, Phạm Bành, Chu Văn An, Cửa Tả. Tiến hành xây dựng các chợ đầu mối, như: Vườn Hoa, Đông Thọ, Nam Thành,…

Văn hoá, xã hội tiếp tục phát triển toàn diện. Trong giáo dục, đào tạo, chất lượng dạy và học được nâng lên ở tất cả các cấp học, ngành học. Toàn Thành phố có 10 trường Tiểu học đạt chuẩn quốc gia; hoàn thành phổ cập giáo dục Trung học cơ sở. Năm học 2000-2001, tỉ lệ học sinh tốt nghiệp Tiểu học đạt 99,6%, Trung học cơ sở đạt 99,35%; tỉ lệ các cháu 5 tuổi đến trường mẫu giáo và 6 tuổi vào lớp 1 đạt 99,5%; kết quả các đợt thi học sinh giỏi chuyên môn, thi vẽ, thi văn nghệ, thi thể dục thể thao,…đều dẫn đầu Tỉnh. Với những kết quả đó, Thành phố giữ vững danh hiệu đơn vị dẫn đầu toàn tỉnh về chất lượng giáo dục toàn diện và giáo dục mũi nhọn. Bên cạnh đó, giáo dục hướng nghiệp và dạy nghề được quan tâm hơn. Công tác đào tạo nghề cho người lao động được đẩy mạnh theo hướng xã hội hoá.

Các hoạt động văn hoá, thông tin diễn ra sôi nổi, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hoá của nhân dân. Trong các hoạt động đó, Thành phố đã kết hợp được với việc tuyên truyền các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Phong trào xây dựng phố văn hoá, làng văn hóa, cơ quan văn hoá tiếp tục được cán bộ và nhân dân tích cực tham gia. Trong năm 2001 có thêm 41 phố, làng, cơ quan văn hoá, nâng tổng số phố, làng và cơ quan văn hoá lên 139 đơn vị, trong đó có 17 phố, làng văn hoá cấp tỉnh và 6 phố, làng văn hoá cấp Thành phố.

Phong trào thể dục thể thao phát triển cả số lượng và chất lượng, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân. Đến cuối năm 2001, Thành phố có 32 câu lạc bộ, 62.000 người thường xuyên tập luyện thể dục thể thao; tổ chức thành công đại hội thể dục thể thao từ cấp phường, xã đến Thành phố.

Về Y tế, Thành phố thực hiện tốt công tác vệ sinh phòng dịch, nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh cho nhân dân; thực hiện tốt các chương trình tiêm chủng mở rộng, uống vitamin A cho trẻ dưới 5 tuổi và bà mẹ mang thai. Nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình, Thành phố tổ chức 5 lớp tập huấn cho 254 cán bộ chuyên trách dân số và cộng tác viên về kiến thức dân số kế hoạch hoá gia đình; triển khai 3 đợt tăng cường sức khoẻ sinh sản ở 8 phường, xã; khám cho 5.914 lượt người, thực hiện các biện pháp tránh thai cho 7.222 lượt người; giảm tỉ suất sinh 0,47% và tỉ lệ sinh con thứ 3 xuống 1,4%.

Về công tác quốc phòng- an ninh, để chủ động đối phó với mọi tình huống, Ban Thường vụ Thành uỷ đề ra phương hướng chung về công tác quốc phòng - an ninh trong năm 2001: Phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và toàn dân, gắn phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng- an ninh, tập trung xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, củng cố vững chắc khu vực phòng thủ Thành phố mà nền tảng là xây dựng cơ sở, xây dựng cụm tuyến vững mạnh an toàn làm chủ, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng lực lượng quân sự - công an Thành phố vững mạnh, chính quy, từng bước hiện đại, làm nòng cốt cho phong trào quần chúng tham gia thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quốc phòng-an ninh, chủ động đánh bại chiến lược “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của địch và các tình huống khác, giữ vững sự ổn định trên địa bàn, góp phần thúc đẩy kinh tế -xã hội của thành phố tiếp tục phát triển.

An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn được giữ vững, các tệ nạn xã hội và vụ việc về hình sự giảm hơn so với năm 2000. Chương trình phòng chống ma tuý đã thu hút được đông đảo nhân dân tham gia.

Công tác xây dựng chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng có nhiều chuyển biến tích cực. Ban Thường vụ Thành uỷ tập trung triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII và Nghị quyết 16/CP của Chính phủ về sắp xếp tổ chức, tinh giảm biên chế, điều chỉnh chức năng nhiệm vụ của mỗi cơ quan, đơn vị phù hợp với tình hình mới. Các cấp, các ngành của Thành phố nghiêm túc thực hiện việc tổ chức sơ kết 3 năm thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Trưởng phố, trưởng thôn được tham gia các lớp bồi dưỡng kiến thức về quản lý nhà nước.

Nhằm tăng cường công tác quản lý địa bàn dân cư trong tình hình mới, phường Phú Sơn được Chính phủ ra Quyết định chia tách thành 2 phường: phường Tân Sơn và phường Phú Sơn.

Với những thành tích đạt được trong năm 2001, Ban Thường vụ Thành uỷ xác định năm 2002 có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc tạo đà cho quá trình thực hiện nhiệm vụ những năm tiếp theo của nhiệm kỳ 2001-2005. Trên cơ sở đó, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế với tốc độ cao và bền vững, tạo bước đột phá trong phát triển công nghiệp, du lịch và nông nghiệp.

Thực hiện Nghị quyết của Ban Thường vụ Thành uỷ về phát triển sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh, chủ động phối hợp với các ngành chức năng của Tỉnh, lãnh đạo các phường, xã đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và nhân dân tập trung đầu tư, mở rộng sản xuất, kinh doanh. Phối hợp với Ban quản lý khu công nghiệp của Tỉnh thúc đẩy việc đầu tư cơ sở hạ tầng kĩ thuật khu công nghiệp Lễ Môn nhằm thu hút các dự án đầu tư, đồng thời xúc tiến quy hoạch các khu công nghiệp dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở khu vực Tây Bắc ga. Bên cạnh đó, tiếp tục đổi mới công tác quản lý đối với các công ty,  hợp tác xã, tổ hợp sản xuất. Tiếp tục sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khóa IX), thực hiện cổ phần hóa và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa hoạt động ổn định.

Về xây dựng và quản lý đô thị, đẩy nhanh tiến độ xây dựng quy hoạch chi tiết các khu vực trên địa bàn Thành phố; tập trung thi công hoàn thành các công trình Hồ Thành khu vực I; triển khai các công trình chuyển tiếp và lập dự án đầu tư các công trình mới như: Đại lộ Bắc- Nam, đại lộ Lê Lợi kéo dài, đường vành đai phía Tây, khu du lịch Hàm Rồng, khu du lịch Mật Sơn; nâng cấp cải tạo lòng đường, vỉa hè, mương thoát nước, trồng cây xanh theo quy hoạch nhằm hoàn chỉnh đồng bộ các tuyến đường nội thành; cải tạo đường giao thông nông thôn; vay vốn xây dựng kiên cố hoá trường học; đẩy nhanh tiếp độ thực hiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà cho nhân dân theo Nghị định 60/CP của Chính phủ; bàn giao lưới điện của Thành phố cho ngành điện quản lý theo quy định của Nhà nước.

Về văn hoá xã hội, tiếp tục nâng cao chất lượng dạy và học, gắn nhà trường với gia đình, gắn giáo dục văn hoá với đào tạo nghề; tăng cường quản lý việc dạy thêm và học thêm; tổ chức các hoạt động thông tin tuyên truyền về chủ trương đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và những chủ trương, kế hoạch của Thành phố về xây dựng Thành phố Thanh Hóa ngày càng khang trang, giàu đẹp; đẩy mạnh cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng nếp sống văn hoá ở mỗi phố, làng, cơ quan, đơn vị; thực hiện tốt công tác chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân, chủ động phòng chống dịch bệnh, kiểm tra, quản lý chặt chẽ vấn đề hành nghề y dược tư nhân, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm; duy trì hoạt động có hiệu quả công tác dân số kế hoạch hoá gia đình và chăm sóc trẻ em, giữ ổn định tỉ lệ phát triển dân số tự nhiên 0,7%, hạn chế các trường hợp sinh con thứ 3, giảm tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng xuống dưới 18%.

Về công tác chính quyền, đoàn thể, tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, đẩy mạnh thực hiện quy chế dân chủ, nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân, tiến hành sắp xếp bộ máy và tinh giảm biên chế theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (khoá VIII) và Nghị quyết 16/CP của Chính phủ.

Tháng 2 -2002, Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa IX bàn về các biện pháp đẩy mạnh phát triển kinh tế- xã hội. Hội nghị thông qua nhiều quyết định quan trọng, trong đó có Nghị quyết Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân. Nghị quyết khẳng định trong những năm đổi mới, kinh tế tư nhân hoạt động rộng khắp cả nước, đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế xã hội, huy động các nguồn lực xã hội vào sản xuất kinh doanh, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, cải thiện đời sống nhân dân, đóng góp ngày càng tăng vào ngân sách nhà nước, góp phần giữ ổn định xã hội. Nghị quyết chỉ rõ phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo đúng pháp luật, bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp của công dân, khuyến khích, hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi về định hướng, quản lý phát triển kinh tế tư nhân theo pháp luật và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế; bảo vệ lợi ích chính đáng của người lao động và người sử dụng lao động. Trên tinh thần đó, ngày 4-11-2002, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thanh Hóa ra Nghị quyết 03 về phát triển ngành nghề thủ công nghiệp. Nghị quyết xác định nhiệm vụ phát triển các ngành nghề thủ công từ năm 2002 đến năm 2005 và năm 2010 của tỉnh cần tập trung khôi phục và phát triển các ngành, nghề truyền thống có lợi thế; phấn đấu đến năm 2005, hình thành một số cụm công nghiệp cấp huyện và các cụm nghề cơ sở; phấn đấu nâng tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm là 15% trong thời kì 2002- 2010. 

Thực hiện những chủ trương trên, các cấp các ngành, các cơ quan đơn vị của Thành phố Thanh Hóa tập trung xây dựng các kế hoạch chi tiết nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu đề ra. Thành uỷ đã tổ chức các hội nghị với một số ngành của Tỉnh để phối hợp tổ chức thực hiện, nhằm giải quyết những khó khăn vướng mắc trong đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, đẩy nhanh tốc độ phát triển đô thị. Bên cạnh những chính sách phát triển kinh tế của Nhà nước và của Tỉnh, Thành phố bổ sung thêm những ưu đãi nhà đầu tư phù hợp với điều kiện của Thành phố nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển năng động hơn. Với những chủ trương và biện pháp đó, Đảng bộ và nhân dân Thành phố đã đạt được kết quả quan trọng trên tất cả các lĩnh vực.

Kinh tế tăng trưởng khá, năm 2002 giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn đạt 643,8 tỉ đồng, tăng 11,5% so với năm 2001, trong đó phần giá trị do Thành phố quản lý đạt 218,6 tỉ đồng, tăng 13% kế hoạch. Tổng giá trị thương mại, dịch vụ đạt 800 tỉ đồng, tăng 8,5% so với năm 2001, trong đó phần giá trị do Thành phố quản lý đạt 112,3 tỉ đồng, tăng 7% kế hoạch, tăng 15,% so với năm 2001. Phương tiện vận tải tăng 5,1%, chất lượng phục vụ được cải thiện, đáp ứng yêu cầu ngày một hơn nhu cầu về sản xuất, kinh doanh và đời sống của nhân dân. Trong nông nghiệp, tuy diện tích gieo trồng giảm, nhưng giá trị sản xuất tăng 1,8%, trong đó điện tích trồng lúa giảm 4% nhưng sản lượng tăng 2,85%; đàn trâu, bò 3.417 con, trong đó có 448 bò Lai sind, đàn lợn hơn 29.000 con, đàn gia cầm 271.750 con, tăng 0,6% so với năm 2001. Các dịch vụ trong sản xuất nông nghiệp phát triển, giá trị trên 1 ha đất canh tác đạt 32 triệu đồng. Thu ngân sách đạt 46,998 tỉ đồng, đạt kế hoạch đề ra, tăng 22,5% so với năm 2001.

Công tác quy hoạch, đầu tư xây dựng và quản lý đô thị có nhiều chuyển biến tích cực. Ủy ban nhân dân Thành phố đã ban hành Quyết định số 369 và Kế hoạch số 132 về việc xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Tiếp đó, Thành ủy có Kế hoạch 18 về huy động toàn thể nhân dân Thành phố tham gia chỉnh trang đô thị; phấn đấu đạt đô thị loại II vào năm 2004.

Trong năm 2002, Thành phố phê duyệt được 6 quy hoạch chi tiết, gồm: khu Trung tâm, khu Nam Trung tâm, các khu đô thị: Đông Hương, Đông Sơn,  Tây ga,  Quảng Thắng. Quy hoạch Bắc Cầu Hạc, Đông Vệ, đồng thời quy hoạch nhiều khu tái định cư cho các khu đô thị mới,… Tập trung đẩy nhanh tiến độ thực hiện các công trình, giải phóng mặt bằng các dự án trọng điểm: Đại lộ Bắc - Nam, Cầu vượt đường sắt, Trung tâm thương mại, Quảng trường Lê Lợi, Đại lộ Lê Lợi kéo dài và nhiều công trình nâng cấp đường giao thông, thoát nước, xây dựng các trường học kiên cố và các khu đô thị mới. Phong trào xây dựng bê tông hóa đường, ngõ ở các phường và đường nông thôn ở các xã được đẩy mạnh, điển hình là Đông Hải.

Tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn đạt 200 tỉ đồng, tăng 8% so với kế hoạch. Việc thực hiện công trình theo phương châm: Nhà nước và nhân dân cùng làm đã đạt kết quả khá. Từ giữa năm 2001 đến cuối năm 2002 có 50 công trình được thực hiện theo phương thức này, trong đó có 21 công trình đã hoàn thành với tống số tiền đầu tư là 3,157 tỉ đồng, nhân dân đóng góp 1,3 77 tỉ đồng, bằng 43,6%. Công tác quản lý đô thị theo quy hoạch từng bước vào nền nếp. Thành phố ban hành quy chế phân cấp quản lý đô thị và thành lập đội kiểm tra quy tắc đô thị.

Văn hoá - xã hội có nhiều chuyển biến tích cực. Tỉ lệ học sinh tốt nghiệp các cấp và lên lớp năm học 2001-2002 đạt hơn 99%. Năm học 2002-2003 triển khai thực hiện tốt việc thay sách giáo khoa lớp 1 và lớp 6. Thành phố đầu tư trên 10 tỷ đồng xây dựng mới 68 phòng học kiên cố. Thành phố tiếp tục là đơn vị dẫn đầu tỉnh về giáo dục toàn diện và giáo dục mũi nhọn. Năm 2001, thành lập Hội khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập trên địa bàn Thành phố.

Hoạt động văn hoá, thông tin có nhiều tiến bộ, phục vụ tốt việc thực hiện nhiệm vụ chính trị. Thành phố tiếp tục triển khai trùng tu tôn tạo các di tích lịch sử, quản lý lễ hội nhằm phục vụ đời sống tinh thần của nhân dân. Thành phố có thêm 42 phố, làng, cơ quan văn hoá, nâng tổng số đạt chuẩn văn hóa cấp tỉnh 176 đơn vị.

Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ nhân dân và thực hiện chính sách xã hội được quan tâm. Các cơ sở y tế được củng cố và tăng cường, chất lượng khám chữa bệnh ngày càng nâng cao. Thực hiện có hiệu quả các chương trình quốc gia về y tế, không để xảy ra dịch bệnh. Tỉ lệ tăng dân số tự nhiên đạt 0,68%, giảm 0,02% so với kế hoạch; số người sinh con thứ ba trở lên giảm so với năm trước; tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng còn 17%, giảm 1% so với kế hoạch, các gia đình chính sách, đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt được quan tâm giúp đỡ. 

Quốc phòng, an ninh được giữ vững, nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang và xây dựng cơ sở an toàn, sẵn sàng chiến đấu gắn với thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; hoàn thành chỉ tiêu tuyển quân và huấn luyện quân sự. An ninh chính trị trên địa bàn được giữ vững. Chương trình quốc gia về phòng chống tội phạm theo Nghị quyết 09/CP của Chính phủ được nhân dân đồng tình hưởng ứng, góp phần bảo vệ trật tự trị an trên địa bàn.

Song song với tập trung lãnh đạo phát triển kinh tế-xã hội, công tác xây dựng Đảng được các cấp ủy thường xuyên quan tâm. Các đảng bộ, chi bộ thực hiện nghiêm chỉnh việc quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, Tỉnh ủy, Thành ủy và của cấp ủy trực thuộc tới toàn thể đảng viên. Qua đó ý thức chính trị của cán bộ, đảng viên được nâng cao. Bên cạnh đó, nhằm bổ sung kiến thức cho đội ngũ cán bộ làm công tác Đảng, Thành ủy đã tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ công tác Đảng, chính quyền và đoàn thể. Những biểu hiện tư tưởng lệch lạc của một số cán bộ, đảng viên và nhân dân được uốn nắn kịp thời. Cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng.

Công tác tổ chức, cán bộ có nhiều chuyển biến tích cực. Đảng bộ đã triển khai thực hiện quy định về phân công, phân cấp quản lý bộ máy và cán bộ, đánh giá bổ nhiệm cán bộ. Kịp thời ổn định bộ máy tổ chức và bố trí cán bộ đối với những đơn vị thành lập mới, chia tách. Việc quy hoạch cán bộ nhiệm kỳ 2005-2010 được chuẩn bị chu đáo. Các cấp ủy chủ động giới thiệu nguồn cho thử thách qua công việc và đưa đi đào tạo, bồi dưỡng.

Công tác phát triển Đảng được tiến hành thường xuyên. Năm 2002, Đảng bộ kết nạp 324 đảng viên mới, trong đó có 18 đảng viên đường phố. Đảng bộ có 106 tổ chức cơ sở Đảng trực thuộc. Qua phân loại, có 63 cơ sở đạt danh hiệu Trong sạch vững mạnh, 38 cơ sở đạt khá và 4 cơ sở yếu kém. Đảng bộ có 10.199/10.893 đảng viên tham gia đánh giá chất lượng, trong đó có 3.778 đồng chí đạt danh hiệu đảng viên xuất sắc, chiếm 37,04%, số đảng viên vi phạm tư cách 112, chiếm 1,1%. Trong năm có 47 đảng viên bị kỷ luật, trong đó khai trừ 8, cảnh cáo 23, khiển trách 16.

Về phát triển đảng khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh, đã thực hiện đúng quan điểm, chủ trương của Đảng và của Đảng bộ tỉnh. Chi bộ doanh nghiệp Tiến Nông là Chi bộ được thí điểm thành lập đầu tiên của Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa.

Hướng tới kỷ niệm 200 năm thành lập tỉnh lỵ và 10 năm thành lập Thành phố Thanh Hóa, đồng thời triển khai thực hiện Nghị quyết 03 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, ngày 16-11-2002, Ban Thường vụ Thành ủy ra Kế hoạch số 18/TU đề ra 4 nhiệm vụ trong tâm của Thành phố đến năm 2004:

Đẩy mạnh phát triển kinh tế với trong tâm là phát triển tiểu thủ công nghiệp và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp

Tập trung giải phóng mặt bằng xây dựng các công trình trọng điểm của theo đúng kế hoạch, huy động nội lực trong xây dựng cơ sở hạ tầng và chỉnh trang đô thị

Tập trung giải quyết có hiệu quả những vấn đề nổi cộm trong lĩnh vực văn hóa-xã hội

Tấn công truy quét các loại tội phạm và tệ nạn xã hội, đặc biệt là tệ nạn ma túy.

Đầu năm 2003, Đảng bộ Thành phố tiếp tục bổ sung kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội của thành phố theo hướng: Tập trung huy động nội lực, tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài, đẩy mạnh phát triển sản xuất – kinh doanh, tạo bước đột phá về phát triển kinh tế, từng bước phấn đấu để Thành phố thực sự là trung tâm ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ của tỉnh. Đẩy mạnh tiến độ giải phóng mặt bằng và xây dựng kết cấu hạ tầng kĩ thuật. Nâng cao chất lượng hoạt động văn hoá xã hội, kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng an ninh, tấn công truy quét tội phạm và tệ nạn xã hội, đặc biệt là tội phạm về ma tuý. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, xây dựng chính quyền trong sạch vững mạnh; đổi mới hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể quần chúng, xây dựng Thành phố ngày một văn minh, hiện đại, đến năm 2004 được công nhận là Thành phố loại 2. Để thực hiện được mục tiêu trên, Đảng bộ xác định tập trung thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp sau:

Các cơ sở kinh tế tập trung chuẩn bị cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đổi mới công nghệ, áp dụng các tiến bộ khoa học, kĩ thuật vào sản xuất, kinh doanh; các doanh nghiệp nhà nước chủ động xây dựng phương án chuyển đổi hình thức sở hữu phù hợp, bảo đảm sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu trong nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, đưa chăn nuôi trở thành ngành sản xuất chính, hình thành các vùng hoa, rau an toàn tập trung; phát triển các loại thuỷ sản có giá trị xuất khẩu; nhân rộng các mô hình làm ăn có hiệu quả và du nhập nghề mới, tạo việc làm cho người lao động, phấn đấu đạt giá trị 40-50 triệu đồng/1 ha.

Thành phố tạo cơ chế chính sách khuyến khích phát triển sản xuất, kinh doanh; xây dựng thêm một số khu công nghiệp vừa và nhỏ, lập quỹ khuyến khích phát triển sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, nông nghiệp và đào tạo nghề.

Xây dựng quản lý đô thị, tập trung hoàn thành các quy hoạch chi tiết còn lại, thực hiện việc quản lý đất đai, đô thị theo quy hoạch. Đẩy mạnh phong trào xây dựng cơ sở hạ tầng theo phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm, từng bước chỉnh trang đô thị; mỗi phường, xã có kế hoạch phát động nhân dân và các cơ quan đóng trên địa bàn xây dựng 1-2 phố kiểu mẫu.

Văn hoá-xã hội, tiếp tục giữ vững chất lượng giáo dục dẫn đầu tỉnh, phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở, từng bước phổ cập trung học phổ thông; tăng cường giáo dục đạo đức cho học sinh. Nâng cao chất lượng các cơ sở đào tạo nghề; đẩy mạnh việc xây dựng trường chuẩn quốc gia. Phát huy mạnh mẽ vai trò của Hội khuyến học, từng bước xây dựng một xã hội học tập.

Tập trung nâng cao chất lượng cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”; làm tốt công tác vệ sinh môi trường, nâng cao chất lượng phục vụ của các cơ sở y tế, không để xảy ra dịch bệnh, quản lý chặt chẽ hành nghề y, dược tư nhân. Tiếp tục đẩy mạnh truyền thông dân số, hạn chế đến mức thấp nhất tỉ lệ sinh con thứ ba trở lên, phòng chống HIV/AIDS; giải quyết việc làm cho 1000 - 1500 lao động, xúc tiến hoạt động xuất khẩu lao động.

Về quốc phòng - an ninh, thực hiện tốt công tác quốc phòng toàn dân và xây dựng thế trận an ninh nhân dân, thường xuyên nâng cao cảnh giác, sẵn sàng đập tan âm mưu chống phá, gây rối, bạo loạn của địch, không để xảy ra tình huống đột xuất, bất ngờ. Hoàn thành chỉ tiêu tuyển quân, bảo đảm số lượng và chất lượng, nâng cao chất lượng huấn luyện quân sự hàng năm. Tiếp tục thực hiện phòng chống tội phạm, đặc biệt là tội phạm ma tuý; tăng cường quản lý trật tự an toàn giao thông nhằm giảm thiểu tai nạn,..

Trong công tác xây dựng Đảng, tập trung tuyên truyền về đợt thi đua lập thành tích xuất sắc kỷ niệm 200 năm đô thị tỉnh lỵ và 10 năm thành lập Thành phố. Thực hiện nghiêm túc Điều lệ Đảng, đảng viên phải nói và làm việc theo nghị quyết của Đảng, gương mẫu trong các phong trào. Quan tâm thành lập chi bộ đảng ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng, thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong việc bàn bạc và quyết nghị những vấn đề quan trọng ở từng địa phương, cơ quan, đơn vị. Sơ kết việc thực hiện Quy định 76 của Bộ Chính trị về tăng cường mối quan hệ của đảng viên đang công tác ở cơ quan, đơn vị với cấp uỷ nơi cư trú.

Thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, vận động nhân dân tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước. Tiếp tục củng cố, xây dựng chính quyền vững mạnh, thực hiện có hiệu quả cải cách thủ tục hành chính.

Tập trung triển khai thực hiện những chủ trương trên, đến cuối năm 2003, năm bản lề của nhiệm kỳ 2001-2005, đồng thời là năm tăng tốc phát triển hướng tới kỷ niệm 200 năm đô thị tỉnh lỵ và 10 năm thành lập Thành phố, Đảng bộ và nhân dân Thành phố đã giành được những kết quả quan trọng.

Thực hiện chủ trương của Đảng bộ, Ủy ban nhân dân Thành phố đã ban hành nhiều quy định khuyến khích phát triển sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, tạo mặt bằng cho các cơ sở kinh tế tổ chức sản xuất, kinh doanh. Nhờ đó, kinh tế Thành phố tiếp tục tăng trưởng, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, các chỉ tiêu kinh tế cơ bản đều vượt kế hoạch, nhiều mô hình sản xuất, kinh doanh có hiệu quả được nhân lên.

Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tiếp tục phát triển. Thành phố có 2005 cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, tạo việc làm cho hơn 8.000 lao động. Phần lớn các cơ sở sản xuất, kinh doanh được trang bị kĩ thuật, công nghệ hiện đại, thực hiện liên doanh, liên kết, mở rộng thị trường, quy mô sản xuất, đa dạng hoá sản phẩm, tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho người lao động. Tổng giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đạt 774 tỉ đồng, bằng 104% kế hoạch, tăng 22,9% so với năm trước, trong đó công nghiệp ngoài quốc doanh đạt 281 tỉ đồng, bằng 107,2% kế hoạch; các thành phần kinh tế khác đều tăng từ 17 đến 37%.

Thương mại phát triển ổn định, tổng giá trị hoạt động thương mại- dịch vụ trên địa bàn Thành phố đạt 904 tỉ đồng, tăng 13% so với năm trước. Thu ngân sách đạt 98,49 tỉ đồng, bằng 157% kế hoạch Tỉnh giao và bằng 143% so với mức phấn đấu của Thành phố. Tổng chi ngân sách đạt 83,879 tỉ đồng, trong đó ngoài việc bảo đảm chi thường xuyên cho bộ máy của Thành phố, còn chi 57 tỉ đồng cho xây dựng cơ bản.

Sản xuất nông nghiệp khởi sắc, cơ cấu cây trồng, vật nuôi được chuyển dịch đúng hướng, kinh tế trang trại phát triển, nhất là ở các xã vùng ven Thành phố. Tổng giá trị toàn ngành nông lâm nghiệp đạt hơn 143 tỉ đồng. Trong đó, đàn lợn có 34.752 con, đạt 115% kế hoạch, tăng 19% so với cùng kỳ; đàn bò có 3.863 con (có hơn 400 bò Lai Sind), đạt 113% kế hoạch, tăng 13%, có 20 trang trại nuôi bò tập trung. Tổng diện tích gieo trồng cả năm 5.497,3 ha, đạt 109,6% kế hoạch; năng suất lúa vụ chiêm xuân đạt 56,2 tạ/ha, vụ mùa đạt 41,2 tạ/ha.

Văn hóa- xã hội tiếp tục phát triển, Thành phố dẫn đầu Tỉnh về giáo dục toàn diện và giáo dục mũi nhọn. Trong năm học có 773 học sinh giỏi cấp tỉnh, 18/18 phường xã đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, 12 trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia, 21/23 trường mầm non tổ chức học bán trú, số trẻ được ăn nghỉ tại trường đạt 70%.

Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” thấm sâu trong quần chúng nhân dân. Hoạt động văn hoá, thông tin bám sát các nhiệm vụ chính trị của Thành phố. Trong năm có thêm 50 phố, làng, cơ quan văn hoá, đạt 125% kế hoạch, nâng tổng số phố, làng văn hoá toàn Thành phố lên 212 đơn vị (gồm 180 phố, làng và 32 cơ quan), trong đó có 55 đơn vị.

Công tác y tế được chú trọng, chất lượng khám chữa bệnh được nâng lên. Công tác truyền thông dân số, bảo vệ bà mẹ và trẻ em được cấp uỷ, chính quyền và nhân dân quan tâm. Tỉ lệ tăng dân số tự nhiên đạt 0,6%, số người sinh con thứ 3 trở lên giảm còn 0,4%, trẻ em suy dinh dưỡng giảm còn 15%.

Chính sách xã hội được triển khai đồng bộ, đặc biệt là công tác xoá đói giảm nghèo. Thành phố hỗ trợ cho các hộ nghèo được vay 8,3 tỉ đồng, nâng tổng số vốn cho các hộ nghèo vay lên 23,4 tỉ đồng. Qua đó, số hộ nghèo giảm từ 5,91% còn 4,66%. Thành phố phát động Tháng hành động vì người nghèo, quyên góp được 206 triệu đồng, hỗ trợ xây dựng 8 nhà tình thương cho 8 hộ nghèo, trao tặng 4 nhà tình nghĩa cho 4 gia đình liệt sĩ, tiếp nhận 156 hài cốt liệt sĩ đưa về Nghĩa trang Liệt sĩ Hàm Rồng.

An ninh chính trị được giữ vững. Lực lượng vũ trang Thành phố bảo đảm yêu cầu sẵn sàng chiến đấu. Thành đội chỉ đạo chặt chẽ công tác huấn luyện quân sự đối với lực lượng dân quân, tự vệ và quân dự bị động viên, tổ chức diễn tập chiến đấu theo các cụm.

Công tác xây dựng Đảng có nhiều chuyển biến quan trọng. Thực hiện nhiệm vụ đề ra, các cấp ủy Đảng đã tập trung quán triệt triển khai thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, như: Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII, Nghị quyết Trung ương 7 khóa VIII, Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX, tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, tổng kết 5 năm thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở theo Chỉ thị 30 của Bộ Chính trị khóa VIII, tổ chức học tập tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh theo Chỉ thị số 23 của Ban Bí thư (khóa IX).... Việc quán triệt thực hiện chỉ thị, nghị quyết của Đảng gắn liền với nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của mỗi tổ chức đảng và đảng viên.

Đối với việc tổ chức hội nghị giữa nhiệm kỳ 2001-2005 và  Đại hội Đảng bộ, chi bộ cơ sở nhiệm kỳ 2003-2005, thực hiện Kế hoạch số 17- KH/TU ngày 9-4- 2003 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy và Hướng dẫn số 11-HD/TU ngày 11-4-2003 của Ban Tổ chức Tỉnh ủy về tiến hành đại hội tổ chức cơ sở đảng cơ quan đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp và lực lượng vũ trang, ngay trong ngày 11-4-2003, Ban Thường vụ Thành ủy ra Hướng dẫn số 09-HD/TU về đại hội Đảng bộ, chi bộ cơ sở nhiệm kỳ 2003-2005. Tiếp đó, ngày 14-5-2003, Ban Thường vụ Thành ủy ra Kế hoạch số 23-KH/TU về kiểm điểm thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ các cấp giữa nhiệm kỳ 2001-2005.

Với sự hướng dẫn và chỉ đạo chặt chẽ của Thành uỷ, các tổ chức cơ sở Đảng  đã thực hiên tốt công tác chuẩn bị hội nghị giữa nhiệm kỳ và đại hội nhiệm kỳ 2003-2005. Báo cáo kiểm điểm giữa nhiệm kỳ của các đảng bộ khối phường, xã đã nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng những kết quả đạt được trong việc thực hiện các mục tiêu đề ra; chỉ rõ những thiếu sót, khuyết điểm cũng như các nguyên nhân của thiếu sót, khuyết điểm đó; đồng thời đề ra những giải pháp cụ thể, tiếp tục lãnh đạo thực hiện những mục tiêu còn lại đến hết nhiệm kỳ.

Cùng với việc tổ chức thành công hội nghị giữa nhiệm kỳ của các tổ chức cơ sở đảng khoá 2001-2005 và đại hội nhiệm kỳ 2003-2005, Ban Thường vụ Thành uỷ tập trung chỉ đạo các cấp uỷ đảng, các phòng, ban ngành của thành phố triển khai thực hiện Hướng dẫn số 17 của Ban Tổ chức trung ương và Hướng dẫn số 14 của Ban Tổ chức Tỉnh uỷ về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kì công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Đến cuối năm 2003, tất cả phường, xã và phần lớn các cơ quan hành chính, sự nghiệp và doanh nghiệp đã xây dựng xong quy hoạch cán bộ nhiệm kỳ 2005-2010, trước mắt là tập trung nguồn nhân sự cho cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân vào năm 2004 và đại hội đảng bộ các cấp vào năm 2005.

Để đổi mới và nâng cao năng lực lãnh đạo cho đội ngũ cán bộ phường, xã, tạo nguồn cán bộ cho Thành phố trong các nhiệm kỳ tiếp theo, năm 2002, Ban Thường vụ Thành ủy đã xin chủ trương của ban Thường vụ Tỉnh ủy cho Thành phố thực hiện luân chuyển cán bộ trẻ được đào tạo chính quy, có triển vọng phát triển về phường, xã đảm nhận các chức danh chủ chốt. Chủ trương, kế hoạch đó đã được sự đồng ý của Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Thành ủy đã điều động, luân chuyển 9 cán bộ lãnh đạo một số phòng, ban của Thành phố về đảm nhận các chức danh chủ chốt Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân ở các phường, xã: Đông Thọ, Hàm Rồng, Đông Hương, Ngọc Trạo, Nam Ngạn, Lam Sơn, Điện Biên.

Nhờ làm tốt công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, các cấp ủy đã kịp thời phát hiện và ngăn ngừa dấu hiệu vi phạm, giải quyết những vấn đề nổi cộm trong trong quá trình thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII. Thành uỷ và cấp uỷ cơ sở xử lí kỷ luật 45 đảng viên vi phạm khuyết điểm, trong đó khiển trách 21, cảnh cáo 18, cách chức 1, khai trừ 5, đưa ra khỏi Đảng bằng các hình thức khác 13. Công tác phát triển đảng viên được chú ý hơn, đã kết nạp 264 đảng viên mới.

Những thành tựu trên tất cả các mặt kinh tế -xã hội, quốc phòng, an ninh, đặc biệt là kết quả hội nghị giữa nhiệm kỳ của các tổ chức cơ sở Đảng khoá 2001-2005 và Đại hội nhiệm kỳ 2003-2005 của các Đảng bộ, chi bộ có ý nghĩa quan trọng để Đảng bộ Thành phố tiếp tục thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ còn lại của kế hoạch 5 năm (2001-2005) .

XÂY DỰNG THÀNH PHỐ TRỞ THÀNH ĐÔ THỊ LOẠI II, HOÀN THÀNH KẾ HOẠCH 5 NĂM (2001-2005)

Tập trung lãnh đạo xây dựng và hoàn thiện các tiêu chí của đô thị loại II

Thành phố Thanh Hóa là trung tâm chính trị, hành chính, kinh tế - xã hội, văn hoá, khoa học của tỉnh, có vị trí quan trọng về an ninh, quốc phòng và có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của cả Tỉnh. Trong thời kỳ đổi mới, được sự quan tâm của Trung ương Đảng, Chính phủ, sự ưu tiên đầu tư của Tỉnh và sự nỗ lực của Đảng bộ, chính quyền và các tầng lớp nhân dân, là động lực để Thành phố đẩy nhanh tốc độ phát triển đô thị. Đặc biệt, kể từ khi có Nghị quyết 02-NQ/TU ngày 26 - 3 - 1997 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về xây dựng phát triển Thành phố đến năm 2010, Đảng bộ Thành phố đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng, phát triển Thành phố một cách toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá, bộ mặt đô thị có nhiều đổi mới, cơ sở hạ tầng kĩ thuật phục vụ sản xuất và đời sống được quan tâm đầu tư, đời sống vật chất tinh thần của nhân dân được cải thiện, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm. Tuy nhiên, tốc độ xây dựng phát triển đô thị còn chậm, việc bố trí đầu tư còn dàn trải, thiếu tập trung, chưa tạo được thay đổi căn bản bộ mặt đô thị, chưa có điểm nhấn của các khu trung tâm. Một số tiêu chí đô thị loại II chưa đạt được theo Nghị định số 72/2002/NĐ-CP ngày 5-10-2001 của Chính phủ.

Để đạt được các tiêu chí của đô thị loại II và được Chính phủ công nhận vào đầu năm 2004 nhân kỷ niệm 200 năm đô thị tỉnh lỵ, 10 năm thành lập Thành phố Thanh Hóa, ngày 14-2-2003, Ban Thường vụ Thành ủy đề xuất với Ban Thường vụ Tỉnh ủy một số cơ chế xây dựng, phát triển Thành phố Thanh Hóa. Thường vụ Thành ủy đề nghị Tỉnh ủy tập trung chỉ đạo đầu tư một số công trình trọng điểm và có cơ chế tạo điều kiện thuận lợi cho Thành phố thực hiện việc chỉnh trang, xây dựng một số dự án, công trình trọng điểm khu trung tâm, như: Quảng trường Lê Lợi, Công viên văn hóa trung tâm, Công viên Hồ Thành (khu vực I, giai đoạn 2), Quảng trường Lam Sơn, Đại lộ Lê Lợi kéo dài; nâng cấp một số tuyến đường nội thành (đường Lê Hoàn, Cao Thắng, Đinh Công Tráng, Hàng Đồng, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Minh Khai, Tống Duy Tân, Lê Hồng Phong, Phan Chu Trinh, Quốc lộ 1A đoạn qua Thành phố) theo hướng đồng bộ, hiện đại, bao gồm cả mặt đường, thoát nước, vỉa hè, cây xanh, điện chiếu sáng; hỗ trợ các phường, xã đầu tư hoàn chỉnh các tuyến đường trục ngoại thành theo phương thức Nhà nước và nhân dân cùng làm; tập trung hoàn thành một số khu tái định cư để phục vụ giải phóng mặt bằng cho các dự án).

Đẩy nhanh tiến độ thực hiện những công trình do Trung ương và Tỉnh đầu tư trên địa bàn Thành phố, như: đại lộ Bắc - Nam, cầu vượt đường sắt, dự án nâng cấp Quốc lộ 1A, Quốc lộ 47, Quốc lộ 45, dự án mở rộng khu công nghiệp Lễ Môn, dự án khu công nghiệp Đình Hương.

Để các công trình trên được triển khai thực hiện đúng tiến độ, bảo đảm chất lượng, hoàn thành vào dịp kỷ niệm 200 năm đô thị tỉnh lỵ, 10 năm thành lập Thành phố, vấn đề đặt ra là cần có một số cơ chế đặc thù về trách nhiệm của chủ đầu tư, thủ tục đầu tư, phương thức đầu tư và về tài chính.

Những kiến nghị của Thành ủy về các nội dung trên đã được Ban Thường vụ Tỉnh uỷ xem xét và chỉ đạo cụ thể. Trên cơ sở đó, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thành phố tiếp tục nỗ lực phấn đấu tập trung xây dựng Thành phố sớm đạt các tiêu chí của đô thị loại II.

Trong năm 2003, Thành phố có 8 quy hoạch chi tiết được phê duyệt và nhiều dự án khác được điều chỉnh bổ sung trình tỉnh phê duyệt. Tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản đạt 867 tỉ đồng, bằng 104,4% kế hoạch, tăng 72% so với năm trước. Các công trình xây dựng cơ bản trọng điểm được tập trung đẩy nhanh tiến độ, như: Quảng trường Lê Lợi, Đại lộ Lê Lợi kéo dài, Trung tâm thương mại, công viên văn hóa thể thao, cầu vượt đường sắt, khu đô thị đông bắc ga, dự án điện Thanh Hóa – Sầm Sơn, khách sạn Sao Mai, trường đại học Hồng Đức, làng SOS. Một số công trình đã hoàn thành và đưa vào sử dụng, như: chợ Đông Thọ, trụ sở một số phường xã, trường học cao tầng. Triển khai thực hiện chỉnh trang 31 tuyến đường nội thành; tiếp tục làm đường giao thông theo phương thức Nhà nước và nhân dân cùng làm nhằm cải thiện cơ sở hạ tầng kĩ thuật ở các khu dân cư. Công tác quản lý đô thị được tăng cường, các công trình xây dựng theo quy hoạch được duyệt. Thành phố cấp 5.400 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đạt 108% kế hoạch. Trật tự đô thị và an toàn giao thông chuyển biến tích cực. Số vụ tai nạn giao thông giảm 24,4%, số người chết do tai nạn giao thông giảm 18,6%.

Với những kết quả đạt được, giữa tháng 12- 2003, Ban chấp Đảng bộ Thành phố đã đề ra nhiệm vụ xây dựng, phát triển Thành phố năm 2004, tiếp tục tập trung hoàn thành các công trình, dự án đã triển khai theo đúng kế hoạch; phát động nhân dân tham gia xây dựng hệ thống giao thông, các công trình phúc lợi xã hội theo phương thức Nhà nước và nhân dân cùng làm; thực hiện chỉnh trang đô thị thị theo tiêu chí đô thị loại II, làm cho Thành phố ngày càng khang trang, sạch đẹp; đẩy mạnh tiến độ giải phóng mặt bằng tạo điều kiện xây dựng các khu đô thị mới, các dự án, công trình trọng điểm. Đồng thời, Thành phố tiến hành rà soát bổ sung quy hoạch và định hướng không gian phát triển Thành phố đến năm 2020. Phối hợp với các ngành trình Uỷ ban nhân dân Tỉnh phê duyệt 3 quy hoạch chi tiết còn lại, đồng thời tích cực xây dựng quy hoạch trung tâm các xã ngoại thành và triển khai xây dựng các khu đô thị mới.

Với những thành tích đạt được trong xây dựng và phát triển Thành phố thời kỳ đổi mới, ngày 6 tháng 4 năm 2004, Chủ tịch Nước ra Quyết định số 174-QĐ tặng thưởng chính quyền và nhân dân Thành phố Thanh Hóa Huân chương Độc lập hạng Ba.

Cùng với niềm vui trước phần thưởng cao quý Đảng và Nhà nước tặng thưởng, trước sự phát triển của Thành phố thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ngày 29-4-2004, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định Quyết định số 72/2004/QĐ-TTg công nhận Thành phố Thanh Hóa thuộc Tỉnh Thanh Hóa là đô thị loại II. Thành phố có tổng diện tích 58,58 km2, dân số gần 200.000 người, với 12 phường nội thành và 6 xã ngoại thành, gồm: các phường Hàm Rồng, Đông Thọ, Trường Thi, Nam Ngạn, Điện Biên, Phú Sơn, Tân Sơn, Ba Đình, Lam Sơn, Đông Sơn, Ngọc Trạo, Đông Vệ và các xã Đông Cương, Đông Hương, Quảng Hưng, Quảng Thành, Quảng Thắng, Đông Hải.


 

. Đô thị loại II  gồm các tiêu chí sau đây :

Đô thị với chức năng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật, du lịch, dịch vụ, đầu mối giao thông, giao lưu trong vùng tỉnh, vùng liên tỉnh hoặc cả nước, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của một vùng lãnh thổ liên tỉnh hoặc một số lĩnh vực đối với cả nước;

Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp trong tổng số lao động từ 80% trở lên;

Có cơ sở hạ tầng được xây dựng nhiều mặt tiến tới tương đối đồng bộ và hoàn chỉnh;

Quy mô dân số từ 25 vạn người trở lên;

Mật độ dân số bình quân từ 10.000 người/km2 trở lên.

 

Để thực hiện tốt công tác chuẩn bị và tổ chức tốt lễ kỷ niệm 200 năm đô thị tỉnh lỵ, 10 năm thành lập Thành phố, công bố Quyết định nâng cấp Thành phố Thanh Hóa là đô thị loại II, đón nhận Huân chương Độc lập hạng Ba, ngày 14-7-2004, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ tổ chức Hội nghị bàn kế hoạch tổ chức lễ kỷ niệm, xác định thời gian tổ chức sự kiện trọng đại này vào cuối tháng 11 -2004.

Ban Thường vụ Thành uỷ thành lập Ban Chỉ đạo tổ chức lễ kỷ niệm. Uỷ ban nhân dân Thành phố xây dựng phương án, chương trình lễ hội và trình Uỷ ban nhân Tỉnh phê duyệt.

Thực hiện sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, đến cuối năm 2004, kinh tế- xã hội của Thành phố tiếp tục phát triển mạnh, đời sống nhân dân được nâng lên, văn minh đô thị được tăng cường, chính trị ổn định, an ninh được giữ vững; công tác chuẩn bị lễ kỷ niệm chu đáo. Trên cơ sở đó, ngày 29-11-2004, Thành uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân Thành phố tổ chức trọng thể lễ đón nhận Huân chương Độc lập hạng Ba và công bố Quyết định của Thủ tướng Chính phủ công nhận Thành phố Thanh Hóa thuộc tỉnh Thanh Hóa là đô thị loại II. Phát biểu tại buổi lễ, đồng chí Trương Quang Được, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Quốc hội khẳng định: Đây là dịp để Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc tỉnh Thanh Hóa ôn lại truyền thống vẻ vang trong suốt chiều dài lịch sử đấu tranh giành độc lập, bảo vệ Tổ quốc, xây dựng và phát triển; tưởng nhớ các thế hệ cha anh, các anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống; cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của Trung ương, của các địa phương cùng đồng bào cả nước, đồng bào ta ở nước ngoài và bạn bè quốc tế, “để hôm nay có một tỉnh Thanh Hóa, một Thành phố Thanh Hóa đang sánh vai cùng các tỉnh, thành phố trong cả nước vững bước trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Những thành quả to lớn đạt được thể hiện sự nỗ lực vượt bậc của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thành phố. Chỉ sau 10 năm được công nhận là Thành phố loại III, Thành phố Thanh Hóa đã trở thành Thành phố loại II với chức năng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá- xã hội, khoa học kỹ thuật của tỉnh; là đầu mối giao thông kết nối giữa các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ với các tỉnh miền trung và cả nước. Điều đó khẳng định tốc độ phát triển nhanh, mạnh của Thành phố. Đảng, Nhà nước đánh giá cao những cố gắng, nỗ lực và những thành tích về phát triển kinh tế-xã hội, quốc phòng-an ninh, đối ngoại của Đảng bộ và nhân dân Thành phố đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng và chấn hưng đất nước.

Để Thành phố Thanh Hóa phát triển nhanh, mạnh, vững chắc hơn nữa trong những năm tiếp theo, đồng chí Trương Quang Được đề nghị Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thành phố cũng như toàn Tỉnh Thanh Hóa quan tâm một số vấn đề:

Một là: Tập trung xây dựng, hoàn chỉnh quy hoạch đồng bộ, gắn với tổ chức thực hiện có hiệu quả và quản lý chặt chẽ quy hoạch đã được duyệt. Trên cơ sở quy hoạch, cần xây dựng các chương trình, dự án cụ thể, xác định nguồn vốn đầu tư, động viên các thành phần kinh tế và nhân dân tham gia xây dựng và phát triển đô thị. Xây dựng đồng bộ và hiện đại hóa kết cấu hạ tầng đô thị.

Hai là: Đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội, tạo bước phát triển mạnh hơn về tốc độ và chất lượng tăng trưởng, bảo đảm tính bền vững; tập trung cải thiện môi trường đầu tư; tạo chuyển biến rõ nét trong cải cách hành chính; giữ vững ổn định chính trị, quốc phòng-an ninh.

Có chính sách đào tạo, sử dụng, thu hút nhân tài gắn với chiến lược phát triển nguồn nhân lực.

Ba là: Chăm lo đời sống nhân dân; chú ý xóa đói, giảm nghèo; giải quyết việc làm, phát triển giáo dục-đào tạo, y tế, khoa học-công nghệ; giải quyết các vấn đề xã hội; phòng chống tệ nạn xã hội; xây dựng nếp sống văn minh, thanh lịch.

Bốn là: các tổ chức trong hệ thống chính trị phải đặc biệt quan tâm đến công tác xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh; phát huy quyền làm chủ của nhân dân; thắt chặt mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân. Tích cực đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Xây dựng đội ngũ cán bộ tài năng, biết đoàn kết, tập hợp được sức mạnh của toàn dân vào sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa quê hương đất nước.

Hoàn thành kế hoạch 5 năm 2001-2005

Đầu năm 2004, Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương tổ chức tổng kết nửa nhiệm kỳ khóa IX và đề ra các nhiệm vụ, giải pháp nhằm tiếp tục thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần IX. Hội nghị xác định trong những năm còn lại của kế hoạch 5 năm (2001-2005) cần phải đẩy nhanh nhịp độ tăng trưởng kinh tế; tiếp tục xây dựng đồng bộ cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tháo gỡ những vướng mắc về cơ chế, chính sách nhằm giải phóng sức sản xuất; đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, đồng thời phát triển không hạn chế quy mô doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác;... Hội nghị tiếp tục khẳng định phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt.

Đây là chủ trương lớn của Ban Chấp hành Trung ương, định hướng cho các tổ chức Đảng tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các nhiệm vụ đề ra trong nhiệm kỳ của mình. Đối với Đảng bộ Thành phố Thanh Hóa, ngay từ cuối tháng 12-2003, Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố đã đề ra phương hướng nhiệm vụ chung của năm 2004, đó là: Phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo, tranh thủ mọi thời cơ thuận lợi, tích cực khắc phục những yếu kém khó khăn, huy động mọi nguồn lực đẩy mạnh phát triển sản xuất kinh doanh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo bước đột phá về phát triển kinh tế, phấn đấu để Thành phố thực sự là trung tâm chính trị, kinh tế văn hoá xã hội, khoa học, kĩ thuật của cả tỉnh. Xây dựng và chỉnh trang đô thị theo tiêu chí của đô thị loại II. Nâng cao chất lượng hoạt động văn hoá xã hội, kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế- xã hội với củng cố quốc phòng - an ninh, tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, xây dựng chính quyền trong sạch vững mạnh, đổi mới hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn  thể chính trị-xã hội, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, phấn đấu xây dựng Thành phố ngày càng văn minh hiện đại, phát triển nhanh và vững chắc.

Các mục tiêu chủ yếu:

Về kinh tế,  tổng sản phẩm quốc nội trên địa bàn (GDP) tăng 16%, bình quân đầu người 929 USD; tăng trưởng các ngành kinh tế chủ yếu: công nghiệp 22-23%, dịch vụ- thương mại 13%, nông nghiệp 6%. Cơ cấu kinh tế công nghiệp-dịch vụ- nông nghiệp trong GDP có tỉ trọng 38% - 57% - 5%.

Tổng vốn đầu tư toàn xã hội 900 tỉ đồng. Thu ngân sách tăng 10% so với kế hoạch tỉnh giao.

Về văn hóa-xã hội, duy trì phổ cập tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập trung học cơ sở và từng bước hoàn thành phổ cập trung học phổ thông, xây dựng một trường đạt chuẩn quốc gia, chuyển một số trường trung học cơ sở và tiểu học sang bán công.

Giảm mức sinh xuống 0,2%0, tỉ lệ tăng dân số tự nhiên 0,7%. Hạ tỉ lệ đói nghèo xuống dưới 4%. Hạ tỉ lệ thất nghiệp xuống dưới 5%. Giảm tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng xuống dưới 14%.

Tỉ lệ gia đình văn hoá  đạt 75% trở lên, gia đình thể thao 38% trở lên; 85% phố làng văn hoá.

Đảm bảo quốc phòng-an ninh, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Hoàn thành chỉ tiêu giao quân năm 2004 và huấn luyện quân sự đạt chất lượng tốt. Phấn đấu 100% đơn vị cơ sở an toàn làm chủ-sẵn sàng chiến đấu và thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở.

Về xây dựng hệ thống chính trị, tổ chức bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân 3 cấp có tỉ lệ cử tri tham gia cao và đúng luật. Phấn đấu 80% cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh.

Để thực hiện được những mục tiêu trên, Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố đề ra các giải pháp chủ yếu sau:

Về kinh tế, tiếp tục đẩy mạnh phát triển công nghiệp ngoài quốc doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nhằm thu hút vốn, khuyến khích phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nâng cao chất lượng và mở rộng hoạt động thương mại, phấn đấu tổng mức bán lẻ hàng hoá, dịch vụ đạt 1.030 tỉ đồng. Phát triển đa dạng các loại hình dịch vụ, nhất là dịch vụ phục vụ sản xuất, du lịch, dịch vụ xuất khẩu nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu về sản xuất và đời sống của nhân dân. Trong nông- lâm nghiệp, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi hướng tới mục tiêu cánh đồng 50 triệu đồng/ ha, hộ gia đình có thu nhập 40-50 triệu đồng/ năm. Phấn đấu giá trị sản xuất nông - lâm nghiệp đạt 1150,6 tỉ đồng, tăng 6% so với năm 2003; tổng diện tích gieo trồng cả năm 5487 ha, diện tích rau an toàn 15 ha, hoa chất lượng cao 2 ha, bò Lai sind 700 con, đàn lợn 36.000 con, trong có 1700 con lợn hướng nạc đủ tiêu chuẩn xuất khẩu, 500 lợn nái ngoại hướng nạc, cá thâm canh 30 ha.

Về xây dựng, quy hoạch và quản lý đô thị, tập trung hoàn thành việc rà soát, bổ sung quy hoạch và định hướng phát triển đến năm 2020; đẩy mạnh tiến độ thi công các công trình trọng điểm như cầu vượt đường sắt, trung tâm thương mại, công viên văn hoá thể thao, đường Lê Lợi kéo dài; triển khai dự án xây dựng nhà ở cho người có thu nhập thấp, công nhân khu công nghiệp; chỉnh trang các tuyến phố nội thành,…

Về các lĩnh vực văn hoá- xã hội, đẩy mạnh xã hội hoá lĩnh vực văn hoá xã hội, tiếp tục thực hiện cuộc vân động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở nơi dân cư, trọng tâm là xây dựng phố, làng , cơ quan văn hoá, xây dựng nếp sống văn minh đô thị; giữ vững danh hiệu đơn vị dẫn đầu tỉnh về chất lượng giáo dục toàn diện; tổ chức tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân về Pháp lệnh dân số, chủ động phòng chống các loại dịch bệnh, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cho nhân dân; tiếp tục đẩy mạnh công tác xoá đói giảm nghèo, tập trung giải quyết việc làm tai chỗ, đẩy mạnh xuất khẩu lao động, phấn đấu giảm tỉ lệ hộ đói nghèo xuống dưới 4%, giảm tỉ lệ thất nghiệp xuống dưới 5%.

Về quốc phòng- an ninh, hoàn thành việc gọi thanh niên nhập ngũ, nâng cao chất lượng huấn luyện dân quân tự vệ, dự bị động viên; củng cố vững chắc nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng cụm tuyến an toàn làm chủ-sẵn sàng chiến đấu gắn với thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, xây dựng phố, xóm không có tệ nạn xã hội và tội phạm.

Tiếp tục kiện toàn bộ máy chính quyền các cấp theo hướng gọn nhẹ, có hiệu quả; đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân; đẩy mạnh cải cách  hành chính; tổ chức tốt cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp; thực hiện luân chuyển cán bộ xuống cơ sở,…

Về công tác xây dựng Đảng, tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) về cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên; đảng viên nói và làm theo nghị quyết; chủ động rà soát bổ sung quy hoạch cán bộ, xây dựng kế hoạch đào tạo bồi dưỡng cán bộ theo các tiêu chuẩn quy định đối với các chức danh; chuẩn bị nhân sự cho cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp vào quý 2 năm 2004 và đại hội Đảng các cấp trong năm 2005.

Với những giải pháp đồng bộ nêu trên, Đảng bộ và nhân dân Thành phố đã nỗ lực phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ đề ra.

Trong năm 2004, các cơ sở kinh tế chủ động nắm bắt thị trường, đổi mới phương thức hoạt động, thực hiện liên doanh, liên kết, đầu tư chiều sâu, áp dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật, mở rộng quy mô, đa dạng hoá  sản phẩm, sắp xếp lại tổ chức bộ máy, đẩy mạnh các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, do những khó khăn về giá cả, thời tiết không thuận lợi nên một số chỉ tiêu không đạt kế hoạch đề ra. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 15,1% (thấp hơn kế hoạch 0,9%) nhưng vẫn tăng gấp 3 lần so với năm 1994, GDP bình quân đầu người đạt 950 USD (tăng 30 USD so với kế hoạch), gấp 2,2 lần so với năm 1994. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XVII đề ra. Tỉ trọng giá trị công nghiệp - thương mại, dịch vụ - nông, lâm nghiệp trong GDP là 37%- 55,8%- 7,2% (chưa đạt kế hoạch đề ra). Giá trị sản xuất công nghiệp đạt 1.014,2 tỉ đồng, tăng 32% so với năm trước, trong đó công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp ngoài quốc doanh đạt 403,7 tỉ đồng, bằng 125% kế hoạch, tăng 37% so với năm trước. Giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 40 triệu USD, tăng 25% so với năm trước. Giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 153 tỉ đồng, bằng 102% kế hoạch, tăng 6,5% so với năm trước. Thu ngân sách trên địa bàn đạt 147,2 tỉ đồng, bằng 112% kế hoạch tỉnh giao, tăng 16% so với năm trước, nhưng chỉ đạt 60% kế hoạch của Thành phố.


 

. Sau Hội nghị này, ngày 29- 7-2004, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ ra Kết luận số 06-KL/TU Về tổ chức kỷ niệm 200 năm đô thị tỉnh lỵ, 10 năm thành lập Thành phố, công bố Quyết định nâng cấp Thành phố Thanh Hóa là đô thị loại II.

Bài phát biểu của Đồng chí Trương Quang Được, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Quốc hội tại Lễ mít tinh kỷ niệm 200 năm đô thị Thanh Hóa, 10 năm thành lập Thành phố, đón nhận Quyết định công nhận Thành phố Thanh Hóa là đô thị loại II và Huân chương Độc lập hạng Ba, tr.2

 

 

Trong công tác quy hoạch, quản lý đô thị, có nhiều công trình, hạng mục công trình được hoàn thành và đưa vào sử dụng trong dịp kỷ niệm 200 năm đô thị tỉnh lỵ, 10 năm thành lập Thành phố, đón nhận Quyết định của Thủ tướng chính phủ nâng cấp Thành phố là đô thị loại II và đón nhận Huân chương Độc lập hạng Ba. Bộ mặt đô thị khang trang, xanh hơn, sáng hơn, đẹp hơn. Tuy nhiên còn một chỉ tiêu quan trọng chưa thực hiện được. Tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản chỉ đạt 550 tỉ đồng, bằng 67% kế hoạch và 65% so với năm trước. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn những hạn chế, trong năm cấp được 6.000 giấy, nâng tổng số lên 26.500/43.000 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đạt 62%.

Công tác quy hoạch mở rộng không gian đô thị Thành phố đến năm 2020 được triển khai. Ngày 17-8-2004, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ ra Thông báo kết luận số 555- TB/TU về định hướng điều chỉnh quy hoạch chung mở rộng địa giới hành chính Thành phố Thanh Hóa đến năm 2020. Kết luận nêu rõ: Việc điều chỉnh quy hoạch chung và mở rộng địa giới hành chính Thành phố để tương xứng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của tỉnh đất rộng, người đông là cần thiết. Hướng mở rộng không gian Thành phố chủ yếu về phía đông, có thể nối liền với Thị xã Sầm Sơn, đồng thời nghiên cứu thêm một số xã ở các huyện lân cận, như Hoàng Hoá, Thiệu Hoá, Đông Sơn. Diện tích tự nhiên của Thành phố sau khi mở rộng là 10.000 ha trở lên. Trong quá trình quy hoạch cần xác định rõ các phân khu chức năng như: các khu dân cư, khu hành chính, khu trung tâm đào tạo, khu trung tâm thương mại, văn hoá, khu công nghiệp, khu du lịch,….và hệ thống giao thông, hạ tầng kĩ thuật.

Đây là chủ trương, định hướng quan trọng của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về mục đích ý, nghĩa và định hướng mở rộng Thành phố. Chủ trương này mở ra cơ hội to lớn cho công cuộc đẩy mạnh xây dựng và phát triển Thành phố ngày càng giàu đẹp, văn minh, hiện đại.

Hoạt động văn hoá- xã hội có nhiều khởi sắc, đặc biệt là các hoạt động tổ chức lễ kỷ niệm 200 năm đô thị tỉnh lỵ, 10 năm thành lập Thành phố, đón nhận Huân chương Độc lập hạng Ba và trở thành đô thị loại II. 

 

 

 

 

Trong giáo dục, chất lượng dạy và học được nâng lên; tình trạng dạy thêm, học thêm trái quy định giảm; chủ trương xã hội hoá giáo đáp ứng yêu cầu học tập của nhân dân. Thành phố tiếp tục giữ vững danh hiệu đơn vị dẫn đầu tỉnh về chất lượng giáo dục toàn diện.

Các cơ sở y tế thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, không để xảy ra dịch bệnh, đảm bảo việc khám chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân. Công tác truyền thông dân số, chăm sóc bà mẹ và trẻ em được quan tâm. Tỉ lệ phát triển dân số tự nhiên dưới 0,7%, đạt chỉ tiêu đề ra. Đội ngũ cán bộ y tế và cơ sở vật chất, thiết bị kĩ thật được tăng cường. Thành phố có thêm 4 trạm xá phường, xã đạt chuẩn quốc gia.

Các đối tượng chính sách được quan tâm, đời sống ổn định. Công tác xoá đói, giảm nghèo có nhiều tiến bộ, Thành phố chỉ còn 1.511 hộ nghèo, chiếm 3,56%. Theo Chỉ thị 08 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, các cấp, ngành tích cực thực hiện việc xoá nhà tranh tre nứa lá, tạm bợ, đã xây dựng ủng hộ 40 nhà nghèo, với tổng giá trị 415 triệu đồng.

Công tác quốc phòng - an ninh được bảo đảm. Thành phố thành lập Ban chỉ đạo giáo dục quốc phòng, hoàn thành kế hoạch tuyển quân và kế hoạch huấn luyện quân sự; thực hiện nghiêm chế độ trực sẵn sàng chiến đấu, tổ chức diễn tập khu vực phòng thủ, kết hợp với nhiệm vụ phòng chống lụt bão và tìm kiếm cứu nạn.

An ninh trên địa bàn được giữ vững, đặc biệt là công tác bảo đảm an toàn các ngày lễ lớn và các sự kiện của Thành phố. Lực lượng an ninh đã mở nhiều đợt cao điểm truy quét các loại tội phạm và tệ nạn xã hội, giữ gìn trật tự, an toàn giao thông, không để bọn tội phạm có tổ chức, lưu manh chuyên nghiệp, tội phạm theo kiểu xã hội đen hoạt động trên địa bàn Thành phố.

Ngay từ đầu năm 2004, các cấp uỷ đã tập trung chuẩn bị cho cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2004-2009. Trên cơ sở đó, cuộc bầu cử đã thành công tốt đẹp, số cử tri đi bầu đạt 99,4%. Các đơn vị bầu cử bầu đủ số đại biểu theo quy định, không có đơn vị phải bầu thêm, bầu bổ sung, trong đó: đại biểu Hội đồng nhân dân Thành phố 39 người, đại biểu Hội đồng nhân dân 18 phường, xã 461 người. Tỉ lệ đại biểu trúng cử là nữ và trẻ tuổi cao hơn khoá trước.

 

 

 

 

 

Sau bầu cử, Hội đồng nhân dân Thành phố và các phường, xã đã tổ chức kì họp thứ nhất, kiện toàn bộ máy của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, xây dựng quy chế hoạt động, chương trình công tác. Các chức danh được bầu tại kì họp thứ nhất Hội đồng nhân dân Thành phố và các phường, xã đều bảo đảm chất lượng, đúng với định hướng giới thiệu nhân sự của các cấp uỷ.

Tại kì họp thứ nhất Hội đồng nhân dân Thành phố nhiệm kỳ 2004-2009, đồng chí Hoàng Văn Hoằng được bầu làm Chủ tịch Hội đồng nhân dân; đồng chí Nguyễn Ngọc Hồi, Phó Bí thư Thành uỷ được bầu làm Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Thành phố.

Uỷ ban nhân dân các cấp tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chương trình cải cách nền hành chính quốc gia, trong đó tập trung cải cách thủ tục hành chính và chỉ đạo thực hiện các chương trình phát triển kinh tế -xã hội.

Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng và phát triển Thành phố. Mặt trận và các tổ chức chính trị-xã hội tập trung củng cố tổ chức bộ máy, kết nạp thêm 5.000 hội viên, đoàn viên mới; đã tổ chức nhiều cuộc thi, các cuộc vận động: Cán bộ làm công tác dân vận khéoToàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư; Ngày vì người nghèo; Ủng hộ xây dựng nhà cho người nghèo, xoá nhà tranh, tre nứa lá, tạm bợ ... được nhân dân Thành phố đồng tình ủng hộ. Riêng cuộc vận động ủng hộ xây dựng nhà cho người nghèo, xoá nhà tranh, tre nứa lá, tạm bợ, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức quần chúng đã quyên góp được 257 triệu đồng trong tổng số 415 triệu đồng.

Về công tác xây dựng Đảng, trong năm 2004, toàn Đảng bộ tập trung triển khai thực hiện các nghị quyết của Trung ương: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa IX  và Kết luận của Hội nghị Trung ương 10 khoá IX; sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII về tiếp tục xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; sơ kết 2 năm thực hiện Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị về công tác tư pháp...

Nhằm nâng cao nhận thức, trình độ lý luận cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, Thành uỷ đã phối hợp tổ chức 17 lớp đào tạo-bồi dưỡng cho 892 học viên, trong đó có 1 lớp trung cấp lí luận. Thông qua các hội nghị quán triệt nghị quyết, sơ kết, tổng kết việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, của Tỉnh và Thành phố, trình độ nhận thức về chính trị của cán bộ, đảng viên được nâng lên, tư tưởng ổn định, góp phần tăng cường, củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng bộ.

Công tác tổ chức, cán bộ tập trung hướng về cơ sở nhằm xây dựng tổ chức Đảng trong sạch vững mạnh. Các cấp uỷ thường xuyên theo dõi việc đảng viên và tổ chức Đảng chấp hành Điều lệ Đảng, quản lý đảng viên, duy trì sinh hoạt chi bộ, thực hiện đấu tranh tự phê bình và phê bình nhằm nâng cao sức chiến đấu của Đảng. Đồng thời các cấp uỷ tổ chức nghiêm túc việc đổi thẻ đảng cho đảng viên. Toàn Đảng bộ có 10912/11373 đảng viên được đổi thẻ. Trong năm, thành lập mới 4 chi bộ cơ sở, nâng tổng số lên 105 đảng bộ, chi bộ cơ sở, trong đó có 67 đảng bộ, 38 chi bộ cơ sở. Các chi bộ tổ chức kết nạp thêm 266 đảng viên mới, trong đó 60 % đảng viên trẻ và 70% có trình độ đại học.

Các cấp uỷ làm tốt công tác giới thiệu người ra ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân và các chức danh chủ chốt của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân Thành phố, phường, xã, bảo đảm chất lượng, đúng quy trình và đúng luật. Ban Thường vụ Thành uỷ giới thiệu để Ủy ban nhân dân Thành phố bổ nhiệm 7 cán bộ giữ các chức vụ: trưởng, phó phòng, ban, ngành, đoàn thể của Thành phố; thoả thuận với với các ngành của tỉnh bổ nhiệm lại 11 cán bộ và điều động 3 cán bộ thuộc các ngành chuyên môn; cử 11 cán bộ trong diện quy hoạch đi học cao cấp lí luận chính trị, 6 cán bộ dự thi cao học; mở lớp cho 101 cán bộ Thành phố và phường, xã tham gia khoá học trung cấp lí luận chính trị tại Thành phố; luân chuyển và điều động 8 cán bộ Thành phố tăng cường cho 5 phường và 1 xã.

Công tác kiểm tra đã kịp thời xử lí 159 đơn, thư khiếu nại, tố cáo của đảng viên và công dân. Nội dung đơn, thư tập trung tố cáo các hành vi vi phạm trong xây dựng cơ bản, quản lý đất đai và về phẩm chất, năng lực của một số cán bộ đảng viên. Những đơn, thư chủ yếu trong thời gian chuẩn bị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Qua kiểm tra, có 45 đảng viên bị xử lí kỷ luật, trong đó: khiển trách 37, cảnh cáo 5, khai trừ 3.

Những kết quả đạt được trên tất cả các mặt kinh tế - xã hội, quốc phòng- an ninh và xây dựng Đảng trong năm 2004 tạo đà cho Đảng bộ và nhân dân Thành phố Thanh Hóa tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XVII, hoàn thành những nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm 2001-2005.

Thực hiện những chủ trương và biện pháp đề ra, trong năm 2005, năm kết thúc nhiệm kỳ Đảng bộ thành phố khoá XVII, năm cuối của kế hoạch 5 năm 2001-2005, Đảng bộ và nhân dân Thành phố đã nỗ lực phấn đấu vươn lên giành nhiều thành tích trên các lĩnh vực, tổ chức thành công đại hội đảng bộ cơ sở và Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XVIII.

Về phát triển kinh tế, với quyết tâm lập thành tích chào mừng đại hội Đảng các cấp, ngay từ đầu năm các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế đã nỗ lực vươn lên, chủ động triển khai thực hiện các giải pháp phát triển kinh tế do Ban Thường vụ Thành uỷ đề ra, như: chủ động tìm kiếm thị trường, thực hiện đa dạng hoá sản phẩm, tăng cường liên doanh, liên kết, đầu tư công nghệ mới, hiện đại, tổ chức hợp lí hoá bộ máy của doanh nghiệp, đơn vị sản xuất, kinh doanh, động viên, cổ vũ sự năng động, sáng tạo của người lao động, tạo phong trào thi đua sôi nổi trong sản xuất, kinh doanh, đồng thời phát triển thêm 205 doanh nghiệp mới, cấp mới đăng kí kinh doanh cho 1.237 hộ, nâng tổng số hộ đăng kí kinh doanh lên 6.798 hộ.

Với những giải pháp đồng bộ đó, kinh tế của Thành phố tiếp tục tăng trưởng cao, tổng giá trị tăng thêm 1.597 tỉ đồng, GDP đạt 16,1%, đạt kế hoạch đề ra (tăng trên 16%); mức tăng trưởng kinh tế của Thành phố trung bình 5 năm (2001-2005) là 15,3%, cao hơn mức tăng bình quân của tỉnh là 9,1% và của cả nước là 7,5%.


 

 Ngày 14-11-2008, Kì họp thứ tư, Quốc hội khoá XII ra  Nghị quyết số 25/2008/QH12 về việc kéo dài nhiệm kỳ hoạt động 2004 – 2009 của Hội đồng nhân các cấp đến 2011

 

GDP bình quân đầu người đạt 1.100 USD, vượt kế hoạch đề ra, tăng 2,5 lần so với năm 2000 và gấp 3,3 lần so với bình quân chung của cả tỉnh. Tỉ trọng giá trị công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp trong GDP là 50,9% - 42,4% - 6,7%. Tổng mức bán lẻ lĩnh vực dịch vụ, thương mại đạt 1241 tỉ đồng, bằng 103,8% kế hoạch, tăng 15,9% so với năm trước; giá trị sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh đạt 601,2 tỉ đồng, bằng 120,2% kế hoạch, tăng 25% so với năm trước; giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 162 tỉ đồng, bằng 101,2% kế hoạch, tăng 4,8% so với năm trước; giá trị xuất khẩu đạt 32 triệu USD; tổng thu ngân sách đạt hơn 203 tỉ đồng, bằng 103% kế hoạch tỉnh giao, tăng 39% so với năm trước, nhưng mới đạt 96% dự toán của Thành phố; tổng chi ngân sách đạt 151,9 tỉ đồng, bằng 109 % kế hoạch đề ra.

Trong quy hoạch, xây dựng và quản lý đô thị, năm 2005, Thành phố bước đầu triển khai quy hoạch điều chỉnh mở rộng không gian phát triển đô thị, hoàn thành một số quy hoạch chi tiết. Các công trình xây dựng trọng điểm chào mừng Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI được hoàn thành đúng tiến độ. Công tác vệ sinh môi trường được tăng cường, bộ mặt đô thị ngày càng khang trang hơn. Tiếp tục quan tâm công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tổng số giấy chứng nhận đã cấp là 30.481 giấy, đạt 73%.

Thành phố tiếp tục dẫn đầu tỉnh về chất lượng giáo dục. Trong năm, có thêm 6 trường thuộc các cấp học đạt chuẩn quốc gia, nâng tổng số trường đạt chuẩn quốc gia lên 21/66 trường. Thành lập mới 6 trung tâm học tập cộng đồng,  đã có 100% số phường, xã có trung tâm học tập cộng đồng. Công tác khuyến học tiếp tục được các cấp, các ngành và nhân dân nhiệt tình ủng hộ. Toàn Thành phố có gần 12 nghìn học sinh có thành tích được nhận các phần quà động viên, trong đó có 500 học sinh nghèo vượt khó, với tổng giá trị 500 triệu đồng.

Các hoạt động văn hóa tập trung vào việc tuyên truyền các ngày lễ lớn và Đại hội Đảng các cấp. Trong năm có thêm 20 phố, làng văn hóa, cơ quan văn minh, 134 đơn vị đạt danh hiệu văn hóa cấp Thành phố và cấp Tỉnh. Hoạt động thể dục thể thao phát triển, tổ chức thành công Đại hội thể dục thể thao Thành phố.

Công tác y tế được bảo đảm, các cơ sở khám chữa bệnh thực hiện tốt việc khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, không để xảy ra dịch bệnh trên địa bàn. Hoạt động tuyên truyền về dân số, kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc bà mẹ và trẻ em đạt hiệu quả cao. Tỉ lệ phát triển dân số tự nhiên đạt 0,7%, tỉ lệ người sinh con thứ ba giảm  1,5%, tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng giảm 1,2% so với năm trước.

Các vấn đề xã hội được quan tâm, như: giải quyết việc làm cho 9.000 lao động, tạo điều kiện cho 123 lao động ra nước ngoài làm việc. Công tác xoá đói giảm nghèo được triển khai tích cực hơn, tỉ lệ hộ nghèo còn 8,91%, giảm 1,36% so với năm trước. Đó là những thành quả thiết thực chào mừng Đại hội Đảng các cấp và Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XVIII.

Những chủ trương, định hướng lớn nhằm phát huy tiềm năng, thu hút nguồn lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá

Quá trình tiến hành đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân.

Nhằm chuẩn bị tốt công tác nhân sự đại hội Đảng các cấp, ngày 13-1-2005, Thường vụ Tỉnh ủy ra Kế hoạch số 37-KH/TU về kiểm điểm tự phê bình và phê bình đối với cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ lãnh đạo, quản lý năm 2004. Tiếp đó, ngày 19-5-2005, Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Kế hoạch số 41-KH/TU về nhận xét đánh giá cấp ủy viên đương nhiệm phục vụ chuẩn bị nhân sự cấp ủy.

Ban Thường vụ Tỉnh ủy chọn Đảng bộ Thành phố là đơn vị đại hội điểm của Tỉnh. Đây là vinh dự đồng thời cũng là trách nhiệm của Đảng bộ và nhân dân Thành phố trong quá trình tổ chức đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X.

Thực hiện Chỉ thị 46 của Bộ Chính trị và các kế hoạch của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, trong quý I năm 2005, Ban Thường vụ Thành ủy đã hoàn chỉnh kế hoạch chỉ đạo đại hội Đảng bộ, chi bộ nhiệm kỳ 2005-2010, coi đây là nhiệm vụ hàng đầu trong chương trình công các năm 2005.

Trong quá trình tiến tới đại hội Đảng bộ, chi bộ cơ sở, các đơn vị đã tập trung sơ kết, tổng kết một số chỉ thị, nghị quyết về những chủ trương lớn của Đảng; tổ chức tuyên truyền về những thành tựu đạt được, đồng thời phát động các phong trào thi đua yêu nước trong toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Sau khi tổ chức đại hội điểm tại 4 đơn vị trong tháng 6 - 2005, Thường vụ Thành ủy tổ chức rút kinh nghiệm đề chỉ đạo đại hội trên diện rộng. Trong tháng 7 và tháng 8 năm 2005, các tổ chức cơ sở Đảng trực thuộc đã tổ chức thành công đại hội ở cấp mình.

Từ ngày 5 đến ngày 9 - 9 - 2005, Đại hội Đảng bộ Thành phố khóa XVIII, nhiệm kỳ 2005-2010 được tổ chức trọng thể tại Hội trường Thành ủy. Đây là đại hội Đảng bộ cấp Thành phố, huyện thị xã đầu tiên của tỉnh Thanh Hóa.

Dự Đại hội có 250 đại biểu, đại diện cho hơn 11.000 đảng viên của 103 tổ chức cơ sở Đảng trong Đảng bộ. Đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ tới dự và trực tiếp chỉ đạo Đại hội.

Phát biểu khai mạc Đại hội, đồng chí Hoàng Văn Hoằng, Bí thư Thành uỷ khẳng định: qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XVII, Đảng bộ và nhân dân Thành phố đã giành được những thành tựu to lớn có ý nghĩa rất quan trọng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh- quốc phòng. Đồng chí nhấn mạnh chủ đề Đại hội Đảng bộ là: Đại hội của trí tuệ, dân chủ, đoàn kết và đổi mới.

Đại hội nghe và thảo luận Báo cáo chính trị, Báo cáo kiểm điểm của Ban Chấp hành Đảng bộ khoá XVII, Báo cáo kết quả 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) và cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Báo cáo tổng hợp ý kiến của Đảng bộ Thành phố tham gia vào các dự thảo văn kiện của Trung ương trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X và Báo cáo chính trị của Tỉnh uỷ trình Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI.

Báo cáo chính trị khẳng định: Nhiệm kỳ 2001-2005, Đảng bộ và nhân dân Thành phố đã đạt được những thành tích quan trọng, vượt nhiều mục tiêu nhiệm vụ đề ra.

Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng tỉ trọng công nghiệp - dịch vụ, giảm tỉ trọng nông nghiệp. Doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh tăng nhanh. Dịch vụ - thương mại phát triển và đang phát huy thế mạnh của đô thị, khai thác có hiệu quả quỹ đất và các nguồn lực trong xã hội cho đầu tư phát triển; GDP bình quân đầu người tăng và gấp 2,5 lần so với bình quân chung của cả Tỉnh.

Văn hoá xã hội có nhiều chuyển biến tiến bộ, trình độ dân trí, nếp sống văn minh đô thị từng bước được nâng lên, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày một nâng cao, an  ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. 

      

Với những kết quả đạt được, Thành phố Thanh Hoá vinh dự được Chủ tịch Nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Ba; Thủ tướng Chính phủ quyết định công nhận Thành phố Thanh Hoá là đô thị loại II.

Bên cạnh những thành tựu đạt được, Đại hội chỉ ra những hạn chế, yếu kém, đồng thời nêu rõ những nguyên nhân chủ quan và khách quan của những hạn chế, yếu kém trong hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ.

Đại hội đề ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ của nhiệm kỳ 2005-2010. Về phương hướng chung, đó là: Khai thác có hiệu quả tiềm năng thế mạnh của đô thị tỉnh lỵ, tạo sức bật mới để tăng tốc phát triển nhanh và bền vững; đẩy mạnh thu hút đầu tư, xác định rõ các chương trình và các công trình trọng điểm để tập trung đầu tư có hiệu quả; chăm lo phát triển văn hoá xã hội, xây dựng ý thức văn minh đô thị làm nền tảng tinh thần cho phát triển toàn diện, giữ vững kỉ cương, làm tốt công tác cán bộ, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; mở rộng dân chủ, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, phấn đấu trở thành đô thi loại I vào năm 2015.

Về kinh tế, GDP trên địa bàn tăng bình quân từ 20% trở lên. Tổng giá trị gia tăng năm 2010 gấp hơn 2 lần so với năm 2005; GDP bình quân đầu người đến năm 2010 đạt 2.200 USD. Cơ cấu kinh tế trong GDP năm 2010: dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp có tỉ trọng 50% - 45,6% - 4,4%

Tốc độ tăng thu ngân sách hàng năm 20% trở lên. Tổng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn trong năm đạt 12.500 tỉ đồng. Giá trị xuất khẩu đến năm 2010 đạt 80-100 triệu USD.

Về văn hóa-xã hội, tỉ lệ tăng dân số tự nhiên dưới 0,7%. Đến năm 2010 tạo việc làm mới cho 50000-55000 lao động. Tỉ lệ lao động được đào tạo đến năm 2010 đạt 60%. Giảm tỉ lệ hộ nghèo mỗi năm từ 1,5- 2%; tỉ lệ trẻ suy dinh dưỡng xuống dưới 8%; tỉ lệ thất nghiệp giảm xuống 2%. Số phố, làng được công nhận danh hiệu đơn vị văn hoá cấp Thành phố đạt 80%.

Về xây dựng Đảng, hàng năm số tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh đạt 80%.

Đại hội đề ra các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện thắng lợi những mục tiêu trên.

Phát biểu tại Đại hội, đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ khẳng định những thành tựu của Đảng bộ Thành phố trong nhiệm kỳ 2001-2005, đồng thời nêu ra những nhiệm vụ nhằm đẩy nhanh tốc độ phát triển Thành phố trong những năm tiếp theo: Là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của Tỉnh, một địa bàn quan trọng và nhạy cảm về chính trị- xã hội, Thành phố có khả năng vừa tạo ra năng lực nội sinh to lớn, vừa thu hút nguồn lực và tụ hội nhân tài từ nhiều nơi. Vì vậy, Thành phố phải phát triển nhanh, mạnh, vững chắc, phấn đấu đi trước và về đích trước trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá, phấn đấu trở thành đô thị loại I vào năm 2015.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố khoá XVIII, nhiệm kỳ 2005-2010 gồm 39 đồng chí. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố khoá XVIII bầu Ban Thường vụ gồm 11 đồng chí; bầu Bí thư và các Phó Bí thư. Đồng chí Hoàng Văn Hoằng được bầu lại làm Bí thư; đồng chí Nguyễn Văn Ngọc làm Phó Bí thư thường trực và đồng chí Nguyễn Ngọc Hồi làm Phó Bí thư (Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố).

Đại hội bầu Đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XV gồm 21 đại biểu chính thức.

Đại hội kêu gọi toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân Thành phố phát huy truyền thống đoàn kết, kỷ cương, năng động, sáng tạo và vị thế của đô thị tỉnh lỵ, quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố khoá XVIII, nhiệm kỳ 2005-2010, xây dựng Thành phố ngày càng giàu mạnh, hiện đại, văn minh.

 

 

(Post by: Trần Chiến; Nguồn sách Lịch sử Đảng bộ Thành phố Thanh Hóa 1945-2010 do Thành ủy TP Thanh Hóa biên soạn và xuất bản 5/2014)

 

 

 

CHƯƠNG VIII: ĐẢNG BỘ VÀ NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐẨY MẠNH THỰC HIỆN CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ (2001 - 2005)

Đăng lúc: 23/10/2014 15:52:29 (GMT+7)

Lịch sử Đảng bộ Thành phố Thanh Hóa 1945-2020 (Tiếp theo)

I. TẬP TRUNG MỌI NGUỒN LỰC, ĐẨY NHANH TỐC ĐỘ  PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI

1. Xác định rõ phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu của Thành phố sau 15 năm lãnh đạo thực hiện đường lối đổi mới của Đảng

      Đầu thế kỉ XXI, tình hình quốc tế, trong nước và Tỉnh Thanh Hóa có nhiều thời cơ thuận lợi. Tỉnh Thanh Hóa đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả các mặt về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, xây dựng Đảng. Tỉnh có nhiều chủ trương đúng đắn trong việc phát triển kinh tế- xã hội, đặc biệt là chủ trương tập trung phát triển các vùng kinh tế trọng điểm ở các đô thị, trung tâm công nghiệp.

     Sau 15 năm thực hiện công cuộc đổi mới, tiếp tục phát huy những thế mạnh về vị trí địa lý, tài nguyên đất đai, sức lao động và tiềm năng về vốn, khoa học công nghệ, thị trường để phát triển kinh tế-xã hội với tốc độ nhanh hơn, Thành phố Thanh Hóa đã có bước phát triển toàn diện và vững chắc trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa- xã hội, quốc phòng- an ninh, đời sống nhân dân không ngừng được nâng lên, cơ sở hạ tầng đô thị được đầu tư xây dựng, bộ mặt đô thị ngày càng khang trang.

     Thực hiện Chỉ thị số 54-CT/TW, ngày 22-5- 2000 của Bộ Chính trị về việc tiến hành đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, những tháng cuối năm 2000, các cơ quan, đơn vị, cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân Thành phố Thanh Hóa đã hăng hái thi đua lao động, sản xuất lập nhiều thành tích suất sắc chào mừng đại hội đảng các cấp cấp, tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX.

     Sau khi hoàn thành Đại hội Đảng bộ, chi bộ cơ sở, từ ngày 11 đến ngày 13 tháng 12 năm 2000, Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2001-2005, được tổ chức trọng thể. Dự đại hội có 180 đại biểu, thay mặt cho hơn mười ngàn đảng viên sinh hoạt tại 103 đảng bộ, chi bộ cơ sở. Đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ Thanh Hóa tới dự và chỉ đạo Đại hội.

     Đánh giá những kết quả đạt được trong 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XVI, Đại hội khẳng định Đảng bộ và nhân dân Thành phố đạt được những thành tựu quan trọng: Giữ vững sự ổn định chính trị trên địa bàn, công cuộc đổi mới được đẩy mạnh, kinh tế tiếp tục phát triển và có bước tăng trưởng khá. Sức hút của đô thị tỉnh lỵ đã tăng lên. Cơ sở hạ tầng kĩ thuật đô thị được tập trung đầu tư và có bước phát triển vượt bậc. Các lĩnh vực văn hóa- xã hội có tiến bộ và ngày càng được xã hội hóa, trình độ dân trí nâng lên, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Trật tự an toàn xã hội cơ bản bảo đảm, vai trò của hệ thống chính trị được củng cố và phát huy tốt hơn. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng được phát huy.

     Đại hội chỉ ra những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân của những khuyết điểm, yếu kém, trên cơ sở đó rút ra một số bài học kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo của Đảng bộ Thành phố:

     Một là, quan tâm làm tốt công tác tư tưởng, đặc biệt phải ổn định tư tưởng nội bộ. Chú trọng thông tin có định hướng đến cán bộ, đảng viên và nhân dân để nâng cao nhận thức, tạo sự thống nhất tư tưởng và hành động. Đồng thời quan tâm thực hiện dân chủ nội bộ, phát hiện và xử lí kịp thời những vấn đề nảy sinh. Xây dựng sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng, trong lãnh đạo ngày càng cao, giữ vững ổn định chính trị.

     Hai là, phải xác định đúng vai trò, vị trí của một đô thị trung tâm đầu não của tỉnh. Thực sự đổi mới phương thức lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của cấp ủy, chính quyền các cấp. Nhận thức đúng đắn, đầy đủ chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào tình hình thực tế của Thành phố. Quá trình tổ chức chỉ đạo thực hiện phải đồng bộ và kiên quyết; bám sát từng mục tiêu và kiên trì lãnh đạo thực hiện. Có sự phân công, phân nhiệm rõ ràng đối với tập thể và cá nhân. Thường xuyên kiểm tra, đôn đốc và đánh giá, động viên cán bộ, đảng viên kịp thời.

     Ba là, luôn coi trọng công tác cán bộ, xác định cán bộ là khâu trọng yếu nhất. Quan tâm đồng bộ công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và xem xét, đánh giá, sử dụng cán bộ. Thực hiện tốt việc luân chuyển, tiêu chuẩn hóa, trẻ hóa cán bộ và chính sách cán bộ, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, kiên quyết thay thế những cán bộ năng lực yếu kém, thiếu trách nhiệm. Phải thực sự xuất phát từ đòi hỏi của công việc để bố trí cán bộ, vì sự nghiệp chung, vì sự phát triển của địa phương, đơn vị và phải thực sự khách quan thì mới lựa chọn, xây dựng được đội ngũ cán bộ tốt.

     Bốn là, quan tâm chăm lo bảo đảm lợi ích chính đáng và hợp pháp của quần chúng nhân dân. Động viên và phát huy truyền thống cách mạng của địa phương, tổ chức tập hợp và phát động quần chúng tham gia các phong trào, đồng thời có các cơ chế, chính sách khuyến khích để khai thác được tiềm năng to lớn trong nhân dân, nhằm thực hiện thành công chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.

     Năm là, tranh thủ sự lãnh đạo, đồng tình ủng hộ, giúp đỡ của cấp trên, của các ngành, của bạn bè đối với Thành phố, coi đó là cơ sở quan trọng để thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế -xã hội của địa phương.

Trên cơ sở phân tích sâu sắc ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm, hướng tới kỷ niệm 200 năm đô thị tỉnh lỵ, 10 năm thành lập Thành phố, Đại hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu trong nhiệm kỳ 2001-2005: “Phát huy cao độ truyền thống, những tiềm năng về vốn, lao động, trí tuệ và khoa học kĩ thuật; tiếp tục đổi mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tập trung đầu tư phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng, tăng cường quản lý đô thị, tiến hành có trọng tâm, trọng điểm và có hiệu quả. Từng bước giải quyết tốt các vấn đề bức xúc về văn hóa- xã hội, trọng tâm là xây dựng nền văn hóa mới, giải quyết việc làm và tệ nạn xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Củng cố quốc phòng-an ninh, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo trật tự- an toàn xã hội. Tiếp tục thực hiện xây dựng chỉnh đốn Đảng, đẩy mạnh và thực hiện có hiệu quả quy chế dân chủ ở cơ sở, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Phấn đấu năm 2001, Đảng bộ Thành phố đạt và giữ danh hiệu “Đảng bộ trong sạch, vững mạnh”; đến năm 2005, Thành phố được nâng cấp lên đô thị loại 2”.

     Đại hội xác định rõ những mục tiêu cụ thể trên các lĩnh vực.

     Về kinh tế: Phấn đấu tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân hàng năm đạt 15- 16%; GDP bình quân đầu người đến năm 2005 đạt 1000 USD trở lên. Cơ cấu kinh tế: Công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp có tỉ trọng: 38% - 57% - 5%; tốc độ phát triển bình quân hàng năm của các ngành kinh tế chủ yếu: công nghiệp: 14-15%, dịch vụ: 12-13%; nông nghiệp: 5-6%. Tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn đạt 400 tỉ đồng/năm; hoàn thành một số dự án lớn như: Dự án cấp nước Thanh Hóa - Sầm Sơn; cải tạo mạng lưới điện, cải tạo hệ thống thoát nước bằng vốn ODA; bãi chứa và xử lí rác thải, dự án cải tạo và nâng cấp kênh Vinh, kênh Nhà Lê; cơ sở hạ tầng khu văn hóa - du lịch Hàm Rồng và xây dựng một số khu chung cư, khu dân cư mới.

      Về văn hóa- xã hội: Duy trì phổ cập tiểu học đúng độ tuổi, sớm hoàn thành phổ cập trung học cơ sở, từng bước tiến hành phổ cập trung học phổ thôngTỉ lệ lao động được đào tạo đến năm 2005 đạt 45% trở lênTiếp tục hạ tỉ lệ phát triển dân số tự nhiên dưới mức 0,8%. Tốc độ đô thị hóa bình quân hằng năm đạt 5% trở lên. Giảm tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng xuống dưới 15%. Đến năm 2005, giảm tỉ lệ hộ nghèo còn dưới 2%, lao động thất nghiệp còn dưới 4%. Đến năm 2005, tỉ lệ gia đình văn hóa đạt 80% trở lên; 70% trở lên khu phố, làng khai trương xây dựng đơn vị văn hóa; phấn đấu 60-70% số cơ quan văn hóa

      Về xây dựng Đảng: Trung bình hằng năm 80% trở lên số đảng bộ, chi bộ cơ sở đạt danh hiệu trong sạch vững mạnh. Xây dựng hệ thống chính quyền và các đoàn thể vững mạnh.

Đại hội bầu Ban Chấp hành khóa XVII, nhiệm kỳ 2001 - 2005, gồm 33 đồng chí. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố bầu Ban Thường vụ gồm 11 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Đức Thắng được bầu làm Bí thư Thành ủy; các đồng chí Nguyễn Văn Ngọc, Bùi Tường Hỷ được bầu làm Phó Bí thư. Đại hội bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XV gồm 22 đại biểu chính thức và 2 đại biểu dự khuyết.

     Đại hội kêu gọi toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân Thành phố phát huy truyền thống 55 xây dựng và trưởng thành của Đảng bộ, kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XVII.

Ngay sau Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XVII, từ ngày 2 đến ngày 5- 1-2001, đã diễn ra Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XV. Phát huy những thành tựu quan trọng bước đầu đạt được, trên cơ sở đánh giá những ưu điểm và hạn chế, khó khăn, căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của địa phương sau 15 năm đổi mới, Đại hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu trong 5 năm 2001-2005: “Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, tăng tốc độ phát triển, phấn đấu đạt và vượt chỉ tiêu trên các lĩnh vực, phát huy nội lực, khai thác có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển, đặc biệt là nguồn nhân lực, ưu tiên đầu tư phát triển các ngành, các lĩnh vực có nhiều tiềm năng, lợi thế của tỉnh, đáp ứng yêu cầu thị trường; tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp, hiện đại hóa, đảm bảo tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao và bền vững; nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh, tích cực chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với giải quyết tốt những vấn đề xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, từng bước thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng-an ninh, giữ vững ổn định chính trị. Xây dựng Đảng, chính quyền Mặt trận và các đoàn thể trong sạch, vững mạnh”.

     Tháng 4 năm 2001, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng chủ trương phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, vì mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh; khẳng định phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đại hội đề ra chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001 – 2010) với mục tiêu tổng quát đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

     Việc tổ chức thành công Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng và Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ XV, Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XVII với những định hướng lớn là cơ sở, nền tảng quan trọng để Đảng bộ và nhân dân Thành phố Thanh Hóa quyết tâm xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, văn minh.

 

 

2. Phát huy các nguồn lực xây dựng thành phố theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa.

     Để đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống, Ban Thường vụ Thành uỷ xác định Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX của Đảng bộ gồm 10 chương trình chủ yếu:

Chương trình đẩy mạnh thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Chương trình đẩy mạnh phát triển công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp 

Chương trình đẩy mạnh tăng thu ngân sách và thực hành tiết kiệm chi.

Chương trình phát triển và quản lý đô thị.

Chương trình khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh dịch vụ và giải quyết việc làm.

Chương trình phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo, nâng cao dân trí, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

Chương trình phát triển văn hoá - xã hội.

Chương trình tăng cường công tác quốc phòng - an ninh và đẩy mạnh phòng chống tội phạm và các tệ nạn xã hội.

Chương trình tiếp tục xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Chương trình chỉ đạo điểm, kiểm tra, thanh tra, sơ kết, tổng kết.

     Ngay từ đầu năm 2001, Ban Thường vụ Thành uỷ đã cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XVII thành các nhiệm vụ trọng tâm của thành phố: Tập trung đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá. Tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng, đồng thời giải quyết tốt vấn đề xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Giữ vững an ninh chính trị- trật tự an toàn xã hội. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, đẩy lùi và ngăn chặn có hiệu quả tệ nạn xã hội và tội phạm. Tiếp tục thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) và cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh.

     Để đạt được các nhiệm vụ trọng tâm đó, Ban Thường vụ Thành uỷ đề ra các nhiệm vụ cụ thể đối với tất cả các lĩnh vực phát triển kinh tế -xã hội, quốc phòng, an ninh, xây dựng và quản lý đô thị, xây dựng Đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân dân.

Về kinh tế: Đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm, tích cực, chủ động hội nhập thị trường khu vực và quốc tế; đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá các doanh nghiệp và thực hiện bán, khoán, cho thuê, giải thể doanh nghiệp theo quy định của Nhà nước. Tiếp tục phát triển doanh nghiệp ngoài quốc doanh; khôi phục và phát huy các ngành nghề truyền thống; đẩy mạnh công nghiệp chế biến nông, lâm, hải sản. Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, phấn đấu đưa giống lúa mới và lúa lai đạt 50% diện tích gieo cấy.

     Về xây dựng và quản lý đô thị: Tăng cường công tác quản lý xây dựng đô thị; hoàn chỉnh quy hoạch chi tiết các khu vực trong thành phố và quy hoạch một số khu đô thị mới; nâng cấp một số tuyến đường ở các khu dân cư bị xuống cấp, xây dựng đồng bộ hệ thống thoát nước, vỉa hè, cây xanh các tuyến nội thành; vận động nhân dân tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng kĩ thuật theo hướng dẫn của Thành phố; hoàn thành dự án xây dựng Khu tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh và các khu di tích khác; đẩy mạnh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nhân dân, giải quyết dứt điểm tình trạng lấn chiếm lòng, lề đường, vỉa hè,…Đẩy mạnh việc thực hiện xây dựng thành phố xanh, sạch, đẹp.

     Về văn hoá-xã hội: Tiếp tục thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở; từng bước chuyển một số trường trung học cơ sở sang loại hình ngoài công lập; nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện và mũi nhọn, giáo dục văn hoá với dạy nghề và kiến thức về phòng chống ma tuý và an toàn giao thông; chấm dứt việc dạy thêm và học thêm ngoài nhà trường. Đẩy mạnh phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá. Mở rộng các hoạt động thể dục thể thao, đa dạng hoá các loại hình hoạt động, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia. Tăng cường công tác chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân, giảm số người sinh con thứ ba trở lên, giảm tỉ lệ tăng dân số tự nhiên mức dưới 0,8%, hạ tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng xuống 18%; thực hiện tốt chính sách xã hội về giải quyết việc làm và xoá đói giảm nghèo, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.

     Về xây dựng Đảng: Thực hiện tốt việc tuyên truyền về thành công của đại hội Đảng bộ các cấp và Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX. Các cấp, các ngành, các đơn vị cụ thể hoá việc thực hiện nghị quyết của Đảng bằng các chương trình hành động và công tác cụ thể; tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) và cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng; làm tốt công tác quy hoạch, bồi dưỡng, bố trí, sắp xếp đội ngũ cán bộ; đẩy mạnh thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.

     Về xây dựng chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể: Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính theo mô hình “một cửa”, nâng cao hiệu quả quản lý của bộ máy Nhà nước; sắp xếp lại bộ máy tổ chức và bố trí cán bộ theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 7 (khoá VIII); nâng cao chất lượng hoạt động của Uỷ ban nhân dân, Hội đồng  nhân dân và các cơ quan chức năng, các đơn vị trực thuộc Thành phố.

     Kiện toàn tổ chức Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; đẩy mạnh các phong trào thi đua, đặc biệt là phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”.

     Triển khai thực hiện các mục tiêu đề ra, ngay trong năm đầu tiên thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XVII, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV và Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Thành phố Thanh Hóa đã giành được nhiều kết quả quan trọng, hoàn thành vượt mức tất cả các chỉ tiêu đề ra. Kinh tế tiếp tục phát triển khá và tương đối toàn diện trong tất cả các ngành, các lĩnh vực.

      Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tăng trưởng cao. Thành phố từng bước triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước.Các doanh nghiệp nhà nước sau khi được cổ phần hoá có bước phát triển tốt như Công ty cổ phần nước mắm Thanh Hương, Phân lân Hàm Rồng, Cơ khí giao thông,… Khu công nghiệp Lễ Môn đã thu hút được nhiều doanh nghiệp đăng kí đầu tư; dự án khu công nghiệp vừa và nhỏ ở Tây Bắc ga, đẩy mạnh xây dựng cơ sở hạ tầng. Công nghiệp ngoài quốc doanh xuất hiện nhiều mô hình sản xuất, kinh doanh có hiệu quả cao.

      Trong nông nghiệp, các xã ngoại thành gieo cấy 5817 ha (trong đó có 198 ha lúa chất lượng cao, 966 ha lúa lai. Đây là diện tích lúa lai lớn nhất so với những năm trước đó), đạt 100% kế hoạch, năng suất đạt 46,3 tạ/ha, sản lượng lương thực đạt 21.917 tấn. Bên cạnh đó, nhân dân đã tích cực chuyển đổi, mở rộng diện tích trồng hoa, cây cảnh lên 58 ha, tăng 79% so với năm 2000. Tuy nhiên, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hoá còn chậm, đầu tư giống cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao chưa được chú trọng. Do đó, giá trị tạo ra trên đơn vị diện tích còn thấp, chưa có các mô hình làm ăn lớn. Trong chăn nuôi, tổng đàn trâu, bò gồm 2.806 con, giảm 6,1% so với năm 2000, đàn lợn 28.000 con, gia cầm 235.055 con tăng 8,4% so với năm 2000.

Các ngành dịch vụ tiếp tục tăng trưởng khá. Dịch vụ vận tải tăng cả về số lượng vận tải và phương tiện. Toàn ngành đã vận chuyển đạt 1.418 ngàn tấn hàng hoá, tăng 7,6% so với năm 2000, khối lượng luân chuyển hàng hoá đạt 107.500 ngàn tấn/km, tăng 7,5% so với năm 2000; khối lượng vận chuyển hành khách đạt 1650 ngàn lượt người, tăng 12% so với năm 2000, khối lượng luân chuyển hành khách đạt 110.000 ngàn lượt người/km, tăng 11% so với năm 2000. Dịch vụ thương mại phát triển, hàng hoá phong phú, đa dạng, giá cả ổn định, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân và phục vụ sản xuất. Thu chi ngân sách vượt kế hoạch tỉnh giao. Tổng thu đạt 42.778 triệu đồng, tăng 31% so với kế hoạch tỉnh giao và tăng 11% so với năm 2000. Kết quả đó đã bảo đảm được các khoản chi cho hoạt động thường xuyên của Thành phố, đồng thời giành một phần đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đô thị. Tổng chi đạt 46.543 triệu đồng, tăng 52% so với kế hoạch tỉnh giao và tăng 39% so với năm trước.

 Trong công tác quản lý đô thị, đã tập trung lập quy hoạch và quản lý quy hoạch. Đến cuối năm 2001, Thành phố đã hoàn thành việc quy hoạch chi tiết Khu Trung tâm, Khu Nam trung tâm, xã Đông Hương, phường Đông Sơn, xã Quảng Thắng, phường Đông Vệ, Khu Đô thị mới Đông Bắc ga, Khu dân cư Mai Xuân Dương, Khu Văn hoá trung tâm Thành phố. Việc triển khai thi công các công trình xây dựng bảo đảm chất lượng và mỹ quan Thành phố. Nhiều tuyến phố được chỉnh trang, nhiều khu đô thị mới hiện đại được hình thành. Nhiều công trình được hoàn thành đúng tiến độ và đưa vào sử dụng có ý nghĩa xã hội sâu sắc, như: Khu văn hoá tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh, Công viên Hồ Thành khu vực I, Khu chứa và xử lý rác thải, đường Đội Cung, đường Minh Khai, Trường Trung học cơ sở Điện Biên và nhiều trường học, trạm y tế ở các phường, xã. Tiếp tục xây dựng công trình đại lộ Lê Lợi kéo dài, Hồ Thành khu vực III; các tuyến đường: Đào Duy Từ, Lê Phụng Hiểu, Phạm Bành, Chu Văn An, Cửa Tả. Tiến hành xây dựng các chợ đầu mối, như: Vườn Hoa, Đông Thọ, Nam Thành,…

 

 Văn hoá, xã hội tiếp tục phát triển toàn diện. Trong giáo dục, đào tạo, chất lượng dạy và học được nâng lên ở tất cả các cấp học, ngành học. Toàn Thành phố có 10 trường Tiểu học đạt chuẩn quốc gia; hoàn thành phổ cập giáo dục Trung học cơ sở. Năm học 2000-2001, tỉ lệ học sinh tốt nghiệp Tiểu học đạt 99,6%, Trung học cơ sở đạt 99,35%; tỉ lệ các cháu 5 tuổi đến trường mẫu giáo và 6 tuổi vào lớp 1 đạt 99,5%; kết quả các đợt thi học sinh giỏi chuyên môn, thi vẽ, thi văn nghệ, thi thể dục thể thao,…đều dẫn đầu Tỉnh. Với những kết quả đó, Thành phố giữ vững danh hiệu đơn vị dẫn đầu toàn tỉnh về chất lượng giáo dục toàn diện và giáo dục mũi nhọn. Bên cạnh đó, giáo dục hướng nghiệp và dạy nghề được quan tâm hơn. Công tác đào tạo nghề cho người lao động được đẩy mạnh theo hướng xã hội hoá.
  Các hoạt động văn hoá, thông tin diễn ra sôi nổi, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hoá của nhân dân. Trong các hoạt động đó, Thành phố đã kết hợp được với việc tuyên truyền các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Phong trào xây dựng phố văn hoá, làng văn hóa, cơ quan văn hoá tiếp tục được cán bộ và nhân dân tích cực tham gia. Trong năm 2001 có thêm 41 phố, làng, cơ quan văn hoá, nâng tổng số phố, làng và cơ quan văn hoá lên 139 đơn vị, trong đó có 17 phố, làng văn hoá
cấp tỉnh và 6 phố, làng văn hoá cấp Thành phố.

 Phong trào thể dục thể thao phát triển cả số lượng và chất lượng, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân. Đến cuối năm 2001, Thành phố có 32 câu lạc bộ, 62.000 người thường xuyên tập luyện thể dục thể thao; tổ chức thành công đại hội thể dục thể thao từ cấp phường, xã đến Thành phố.

Về Y tế, Thành phố thực hiện tốt công tác vệ sinh phòng dịch, nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh cho nhân dân; thực hiện tốt các chương trình tiêm chủng mở rộng, uống vitamin A cho trẻ dưới 5 tuổi và bà mẹ mang thai. Nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình, Thành phố tổ chức 5 lớp tập huấn cho 254 cán bộ chuyên trách dân số và cộng tác viên về kiến thức dân số kế hoạch hoá gia đình; triển khai 3 đợt tăng cường sức khoẻ sinh sản ở 8 phường, xã; khám cho 5.914 lượt người, thực hiện các biện pháp tránh thai cho 7.222 lượt người; giảm tỉ suất sinh 0,47% và tỉ lệ sinh con thứ 3 xuống 1,4%.

Về công tác quốc phòng- an ninh, để chủ động đối phó với mọi tình huống, Ban Thường vụ Thành uỷ đề ra phương hướng chung về công tác quốc phòng - an ninh trong năm 2001: Phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và toàn dân, gắn phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng- an ninh, tập trung xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, củng cố vững chắc khu vực phòng thủ Thành phố mà nền tảng là xây dựng cơ sở, xây dựng cụm tuyến vững mạnh an toàn làm chủ, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng lực lượng quân sự - công an Thành phố vững mạnh, chính quy, từng bước hiện đại, làm nòng cốt cho phong trào quần chúng tham gia thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quốc phòng-an ninh, chủ động đánh bại chiến lược “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của địch và các tình huống khác, giữ vững sự ổn định trên địa bàn, góp phần thúc đẩy kinh tế -xã hội của thành phố tiếp tục phát triển.

An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn được giữ vững, các tệ nạn xã hội và vụ việc về hình sự giảm hơn so với năm 2000. Chương trình phòng chống ma tuý đã thu hút được đông đảo nhân dân tham gia.

Công tác xây dựng chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng có nhiều chuyển biến tích cực. Ban Thường vụ Thành uỷ tập trung triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII và Nghị quyết 16/CP của Chính phủ về sắp xếp tổ chức, tinh giảm biên chế, điều chỉnh chức năng nhiệm vụ của mỗi cơ quan, đơn vị phù hợp với tình hình mới. Các cấp, các ngành của Thành phố nghiêm túc thực hiện việc tổ chức sơ kết 3 năm thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Trưởng phố, trưởng thôn được tham gia các lớp bồi dưỡng kiến thức về quản lý nhà nước.

Nhằm tăng cường công tác quản lý địa bàn dân cư trong tình hình mới, phường Phú Sơn được Chính phủ ra Quyết định chia tách thành 2 phường: phường Tân Sơn và phường Phú Sơn.

Với những thành tích đạt được trong năm 2001, Ban Thường vụ Thành uỷ xác định năm 2002 có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc tạo đà cho quá trình thực hiện nhiệm vụ những năm tiếp theo của nhiệm kỳ 2001-2005. Trên cơ sở đó, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế với tốc độ cao và bền vững, tạo bước đột phá trong phát triển công nghiệp, du lịch và nông nghiệp.

Thực hiện Nghị quyết của Ban Thường vụ Thành uỷ về phát triển sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh, chủ động phối hợp với các ngành chức năng của Tỉnh, lãnh đạo các phường, xã đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và nhân dân tập trung đầu tư, mở rộng sản xuất, kinh doanh. Phối hợp với Ban quản lý khu công nghiệp của Tỉnh thúc đẩy việc đầu tư cơ sở hạ tầng kĩ thuật khu công nghiệp Lễ Môn nhằm thu hút các dự án đầu tư, đồng thời xúc tiến quy hoạch các khu công nghiệp dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở khu vực Tây Bắc ga. Bên cạnh đó, tiếp tục đổi mới công tác quản lý đối với các công ty,  hợp tác xã, tổ hợp sản xuất. Tiếp tục sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khóa IX), thực hiện cổ phần hóa và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa hoạt động ổn định.

Về xây dựng và quản lý đô thị, đẩy nhanh tiến độ xây dựng quy hoạch chi tiết các khu vực trên địa bàn Thành phố; tập trung thi công hoàn thành các công trình Hồ Thành khu vực I; triển khai các công trình chuyển tiếp và lập dự án đầu tư các công trình mới như: Đại lộ Bắc- Nam, đại lộ Lê Lợi kéo dài, đường vành đai phía Tây, khu du lịch Hàm Rồng, khu du lịch Mật Sơn; nâng cấp cải tạo lòng đường, vỉa hè, mương thoát nước, trồng cây xanh theo quy hoạch nhằm hoàn chỉnh đồng bộ các tuyến đường nội thành; cải tạo đường giao thông nông thôn; vay vốn xây dựng kiên cố hoá trường học; đẩy nhanh tiếp độ thực hiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà cho nhân dân theo Nghị định 60/CP của Chính phủ; bàn giao lưới điện của Thành phố cho ngành điện quản lý theo quy định của Nhà nước.

Về văn hoá xã hội, tiếp tục nâng cao chất lượng dạy và học, gắn nhà trường với gia đình, gắn giáo dục văn hoá với đào tạo nghề; tăng cường quản lý việc dạy thêm và học thêm; tổ chức các hoạt động thông tin tuyên truyền về chủ trương đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và những chủ trương, kế hoạch của Thành phố về xây dựng Thành phố Thanh Hóa ngày càng khang trang, giàu đẹp; đẩy mạnh cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng nếp sống văn hoá ở mỗi phố, làng, cơ quan, đơn vị; thực hiện tốt công tác chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân, chủ động phòng chống dịch bệnh, kiểm tra, quản lý chặt chẽ vấn đề hành nghề y dược tư nhân, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm; duy trì hoạt động có hiệu quả công tác dân số kế hoạch hoá gia đình và chăm sóc trẻ em, giữ ổn định tỉ lệ phát triển dân số tự nhiên 0,7%, hạn chế các trường hợp sinh con thứ 3, giảm tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng xuống dưới 18%.

Về công tác chính quyền, đoàn thể, tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, đẩy mạnh thực hiện quy chế dân chủ, nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân, tiến hành sắp xếp bộ máy và tinh giảm biên chế theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (khoá VIII) và Nghị quyết 16/CP của Chính phủ.

Tháng 2 -2002, Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa IX bàn về các biện pháp đẩy mạnh phát triển kinh tế- xã hội. Hội nghị thông qua nhiều quyết định quan trọng, trong đó có Nghị quyết Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân. Nghị quyết khẳng định trong những năm đổi mới, kinh tế tư nhân hoạt động rộng khắp cả nước, đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế xã hội, huy động các nguồn lực xã hội vào sản xuất kinh doanh, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, cải thiện đời sống nhân dân, đóng góp ngày càng tăng vào ngân sách nhà nước, góp phần giữ ổn định xã hội. Nghị quyết chỉ rõ phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo đúng pháp luật, bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp của công dân, khuyến khích, hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi về định hướng, quản lý phát triển kinh tế tư nhân theo pháp luật và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế; bảo vệ lợi ích chính đáng của người lao động và người sử dụng lao động. Trên tinh thần đó, ngày 4-11-2002, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thanh Hóa ra Nghị quyết 03 về phát triển ngành nghề thủ công nghiệp. Nghị quyết xác định nhiệm vụ phát triển các ngành nghề thủ công từ năm 2002 đến năm 2005 và năm 2010 của tỉnh cần tập trung khôi phục và phát triển các ngành, nghề truyền thống có lợi thế; phấn đấu đến năm 2005, hình thành một số cụm công nghiệp cấp huyện và các cụm nghề cơ sở; phấn đấu nâng tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm là 15% trong thời kì 2002- 2010. 

Thực hiện những chủ trương trên, các cấp các ngành, các cơ quan đơn vị của Thành phố Thanh Hóa tập trung xây dựng các kế hoạch chi tiết nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu đề ra. Thành uỷ đã tổ chức các hội nghị với một số ngành của Tỉnh để phối hợp tổ chức thực hiện, nhằm giải quyết những khó khăn vướng mắc trong đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, đẩy nhanh tốc độ phát triển đô thị. Bên cạnh những chính sách phát triển kinh tế của Nhà nước và của Tỉnh, Thành phố bổ sung thêm những ưu đãi nhà đầu tư phù hợp với điều kiện của Thành phố nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển năng động hơn. Với những chủ trương và biện pháp đó, Đảng bộ và nhân dân Thành phố đã đạt được kết quả quan trọng trên tất cả các lĩnh vực.

Kinh tế tăng trưởng khá, năm 2002 giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn đạt 643,8 tỉ đồng, tăng 11,5% so với năm 2001, trong đó phần giá trị do Thành phố quản lý đạt 218,6 tỉ đồng, tăng 13% kế hoạch. Tổng giá trị thương mại, dịch vụ đạt 800 tỉ đồng, tăng 8,5% so với năm 2001, trong đó phần giá trị do Thành phố quản lý đạt 112,3 tỉ đồng, tăng 7% kế hoạch, tăng 15,% so với năm 2001. Phương tiện vận tải tăng 5,1%, chất lượng phục vụ được cải thiện, đáp ứng yêu cầu ngày một hơn nhu cầu về sản xuất, kinh doanh và đời sống của nhân dân. Trong nông nghiệp, tuy diện tích gieo trồng giảm, nhưng giá trị sản xuất tăng 1,8%, trong đó điện tích trồng lúa giảm 4% nhưng sản lượng tăng 2,85%; đàn trâu, bò 3.417 con, trong đó có 448 bò Lai sind, đàn lợn hơn 29.000 con, đàn gia cầm 271.750 con, tăng 0,6% so với năm 2001. Các dịch vụ trong sản xuất nông nghiệp phát triển, giá trị trên 1 ha đất canh tác đạt 32 triệu đồng. Thu ngân sách đạt 46,998 tỉ đồng, đạt kế hoạch đề ra, tăng 22,5% so với năm 2001.

Công tác quy hoạch, đầu tư xây dựng và quản lý đô thị có nhiều chuyển biến tích cực. Ủy ban nhân dân Thành phố đã ban hành Quyết định số 369 và Kế hoạch số 132 về việc xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Tiếp đó, Thành ủy có Kế hoạch 18 về huy động toàn thể nhân dân Thành phố tham gia chỉnh trang đô thị; phấn đấu đạt đô thị loại II vào năm 2004.

Trong năm 2002, Thành phố phê duyệt được 6 quy hoạch chi tiết, gồm: khu Trung tâm, khu Nam Trung tâm, các khu đô thị: Đông Hương, Đông Sơn,  Tây ga,  Quảng Thắng. Quy hoạch Bắc Cầu Hạc, Đông Vệ, đồng thời quy hoạch nhiều khu tái định cư cho các khu đô thị mới,… Tập trung đẩy nhanh tiến độ thực hiện các công trình, giải phóng mặt bằng các dự án trọng điểm: Đại lộ Bắc - Nam, Cầu vượt đường sắt, Trung tâm thương mại, Quảng trường Lê Lợi, Đại lộ Lê Lợi kéo dài và nhiều công trình nâng cấp đường giao thông, thoát nước, xây dựng các trường học kiên cố và các khu đô thị mới. Phong trào xây dựng bê tông hóa đường, ngõ ở các phường và đường nông thôn ở các xã được đẩy mạnh, điển hình là Đông Hải.

Tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn đạt 200 tỉ đồng, tăng 8% so với kế hoạch. Việc thực hiện công trình theo phương châm: Nhà nước và nhân dân cùng làm đã đạt kết quả khá. Từ giữa năm 2001 đến cuối năm 2002 có 50 công trình được thực hiện theo phương thức này, trong đó có 21 công trình đã hoàn thành với tống số tiền đầu tư là 3,157 tỉ đồng, nhân dân đóng góp 1,3 77 tỉ đồng, bằng 43,6%. Công tác quản lý đô thị theo quy hoạch từng bước vào nền nếp. Thành phố ban hành quy chế phân cấp quản lý đô thị và thành lập đội kiểm tra quy tắc đô thị.

 

Văn hoá - xã hội có nhiều chuyển biến tích cực. Tỉ lệ học sinh tốt nghiệp các cấp và lên lớp năm học 2001-2002 đạt hơn 99%. Năm học 2002-2003 triển khai thực hiện tốt việc thay sách giáo khoa lớp 1 và lớp 6. Thành phố đầu tư trên 10 tỷ đồng xây dựng mới 68 phòng học kiên cố. Thành phố tiếp tục là đơn vị dẫn đầu tỉnh về giáo dục toàn diện và giáo dục mũi nhọn. Năm 2001, thành lập Hội khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập trên địa bàn Thành phố.

Hoạt động văn hoá, thông tin có nhiều tiến bộ, phục vụ tốt việc thực hiện nhiệm vụ chính trị. Thành phố tiếp tục triển khai trùng tu tôn tạo các di tích lịch sử, quản lý lễ hội nhằm phục vụ đời sống tinh thần của nhân dân. Thành phố có thêm 42 phố, làng, cơ quan văn hoá, nâng tổng số đạt chuẩn văn hóa cấp tỉnh 176 đơn vị.

Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ nhân dân và thực hiện chính sách xã hội được quan tâm. Các cơ sở y tế được củng cố và tăng cường, chất lượng khám chữa bệnh ngày càng nâng cao. Thực hiện có hiệu quả các chương trình quốc gia về y tế, không để xảy ra dịch bệnh. Tỉ lệ tăng dân số tự nhiên đạt 0,68%, giảm 0,02% so với kế hoạch; số người sinh con thứ ba trở lên giảm so với năm trước; tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng còn 17%, giảm 1% so với kế hoạch, các gia đình chính sách, đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt được quan tâm giúp đỡ. 

 

 

 

Quốc phòng, an ninh được giữ vững, nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang và xây dựng cơ sở an toàn, sẵn sàng chiến đấu gắn với thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; hoàn thành chỉ tiêu tuyển quân và huấn luyện quân sự. An ninh chính trị trên địa bàn được giữ vững. Chương trình quốc gia về phòng chống tội phạm theo Nghị quyết 09/CP của Chính phủ được nhân dân đồng tình hưởng ứng, góp phần bảo vệ trật tự trị an trên địa bàn.

Song song với tập trung lãnh đạo phát triển kinh tế-xã hội, công tác xây dựng Đảng được các cấp ủy thường xuyên quan tâm. Các đảng bộ, chi bộ thực hiện nghiêm chỉnh việc quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, Tỉnh ủy, Thành ủy và của cấp ủy trực thuộc tới toàn thể đảng viên. Qua đó ý thức chính trị của cán bộ, đảng viên được nâng cao. Bên cạnh đó, nhằm bổ sung kiến thức cho đội ngũ cán bộ làm công tác Đảng, Thành ủy đã tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ công tác Đảng, chính quyền và đoàn thể. Những biểu hiện tư tưởng lệch lạc của một số cán bộ, đảng viên và nhân dân được uốn nắn kịp thời. Cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng.

Công tác tổ chức, cán bộ có nhiều chuyển biến tích cực. Đảng bộ đã triển khai thực hiện quy định về phân công, phân cấp quản lý bộ máy và cán bộ, đánh giá bổ nhiệm cán bộ. Kịp thời ổn định bộ máy tổ chức và bố trí cán bộ đối với những đơn vị thành lập mới, chia tách. Việc quy hoạch cán bộ nhiệm kỳ 2005-2010 được chuẩn bị chu đáo. Các cấp ủy chủ động giới thiệu nguồn cho thử thách qua công việc và đưa đi đào tạo, bồi dưỡng.

Công tác phát triển Đảng được tiến hành thường xuyên. Năm 2002, Đảng bộ kết nạp 324 đảng viên mới, trong đó có 18 đảng viên đường phố. Đảng bộ có 106 tổ chức cơ sở Đảng trực thuộc. Qua phân loại, có 63 cơ sở đạt danh hiệu Trong sạch vững mạnh, 38 cơ sở đạt khá và 4 cơ sở yếu kém. Đảng bộ có 10.199/10.893 đảng viên tham gia đánh giá chất lượng, trong đó có 3.778 đồng chí đạt danh hiệu đảng viên xuất sắc, chiếm 37,04%, số đảng viên vi phạm tư cách 112, chiếm 1,1%. Trong năm có 47 đảng viên bị kỷ luật, trong đó khai trừ 8, cảnh cáo 23, khiển trách 16.

Về phát triển đảng khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh, đã thực hiện đúng quan điểm, chủ trương của Đảng và của Đảng bộ tỉnh. Chi bộ doanh nghiệp Tiến Nông là Chi bộ được thí điểm thành lập đầu tiên của Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa.

Hướng tới kỷ niệm 200 năm thành lập tỉnh lỵ và 10 năm thành lập Thành phố Thanh Hóa, đồng thời triển khai thực hiện Nghị quyết 03 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, ngày 16-11-2002, Ban Thường vụ Thành ủy ra Kế hoạch số 18/TU đề ra 4 nhiệm vụ trong tâm của Thành phố đến năm 2004:

Đẩy mạnh phát triển kinh tế với trong tâm là phát triển tiểu thủ công nghiệp và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp

Tập trung giải phóng mặt bằng xây dựng các công trình trọng điểm của theo đúng kế hoạch, huy động nội lực trong xây dựng cơ sở hạ tầng và chỉnh trang đô thị

Tập trung giải quyết có hiệu quả những vấn đề nổi cộm trong lĩnh vực văn hóa-xã hội

Tấn công truy quét các loại tội phạm và tệ nạn xã hội, đặc biệt là tệ nạn ma túy.

Đầu năm 2003, Đảng bộ Thành phố tiếp tục bổ sung kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội của thành phố theo hướng: Tập trung huy động nội lực, tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài, đẩy mạnh phát triển sản xuất – kinh doanh, tạo bước đột phá về phát triển kinh tế, từng bước phấn đấu để Thành phố thực sự là trung tâm ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ của tỉnh. Đẩy mạnh tiến độ giải phóng mặt bằng và xây dựng kết cấu hạ tầng kĩ thuật. Nâng cao chất lượng hoạt động văn hoá xã hội, kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng an ninh, tấn công truy quét tội phạm và tệ nạn xã hội, đặc biệt là tội phạm về ma tuý. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, xây dựng chính quyền trong sạch vững mạnh; đổi mới hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể quần chúng, xây dựng Thành phố ngày một văn minh, hiện đại, đến năm 2004 được công nhận là Thành phố loại 2. Để thực hiện được mục tiêu trên, Đảng bộ xác định tập trung thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp sau:

Các cơ sở kinh tế tập trung chuẩn bị cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đổi mới công nghệ, áp dụng các tiến bộ khoa học, kĩ thuật vào sản xuất, kinh doanh; các doanh nghiệp nhà nước chủ động xây dựng phương án chuyển đổi hình thức sở hữu phù hợp, bảo đảm sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu trong nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, đưa chăn nuôi trở thành ngành sản xuất chính, hình thành các vùng hoa, rau an toàn tập trung; phát triển các loại thuỷ sản có giá trị xuất khẩu; nhân rộng các mô hình làm ăn có hiệu quả và du nhập nghề mới, tạo việc làm cho người lao động, phấn đấu đạt giá trị 40-50 triệu đồng/1 ha.

Thành phố tạo cơ chế chính sách khuyến khích phát triển sản xuất, kinh doanh; xây dựng thêm một số khu công nghiệp vừa và nhỏ, lập quỹ khuyến khích phát triển sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, nông nghiệp và đào tạo nghề.

Xây dựng quản lý đô thị, tập trung hoàn thành các quy hoạch chi tiết còn lại, thực hiện việc quản lý đất đai, đô thị theo quy hoạch. Đẩy mạnh phong trào xây dựng cơ sở hạ tầng theo phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm, từng bước chỉnh trang đô thị; mỗi phường, xã có kế hoạch phát động nhân dân và các cơ quan đóng trên địa bàn xây dựng 1-2 phố kiểu mẫu.

Văn hoá-xã hội, tiếp tục giữ vững chất lượng giáo dục dẫn đầu tỉnh, phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở, từng bước phổ cập trung học phổ thông; tăng cường giáo dục đạo đức cho học sinh. Nâng cao chất lượng các cơ sở đào tạo nghề; đẩy mạnh việc xây dựng trường chuẩn quốc gia. Phát huy mạnh mẽ vai trò của Hội khuyến học, từng bước xây dựng một xã hội học tập.

Tập trung nâng cao chất lượng cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”; làm tốt công tác vệ sinh môi trường, nâng cao chất lượng phục vụ của các cơ sở y tế, không để xảy ra dịch bệnh, quản lý chặt chẽ hành nghề y, dược tư nhân. Tiếp tục đẩy mạnh truyền thông dân số, hạn chế đến mức thấp nhất tỉ lệ sinh con thứ ba trở lên, phòng chống HIV/AIDS; giải quyết việc làm cho 1000 - 1500 lao động, xúc tiến hoạt động xuất khẩu lao động.

Về quốc phòng - an ninh, thực hiện tốt công tác quốc phòng toàn dân và xây dựng thế trận an ninh nhân dân, thường xuyên nâng cao cảnh giác, sẵn sàng đập tan âm mưu chống phá, gây rối, bạo loạn của địch, không để xảy ra tình huống đột xuất, bất ngờ. Hoàn thành chỉ tiêu tuyển quân, bảo đảm số lượng và chất lượng, nâng cao chất lượng huấn luyện quân sự hàng năm. Tiếp tục thực hiện phòng chống tội phạm, đặc biệt là tội phạm ma tuý; tăng cường quản lý trật tự an toàn giao thông nhằm giảm thiểu tai nạn,..

Trong công tác xây dựng Đảng, tập trung tuyên truyền về đợt thi đua lập thành tích xuất sắc kỷ niệm 200 năm đô thị tỉnh lỵ và 10 năm thành lập Thành phố. Thực hiện nghiêm túc Điều lệ Đảng, đảng viên phải nói và làm việc theo nghị quyết của Đảng, gương mẫu trong các phong trào. Quan tâm thành lập chi bộ đảng ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng, thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong việc bàn bạc và quyết nghị những vấn đề quan trọng ở từng địa phương, cơ quan, đơn vị. Sơ kết việc thực hiện Quy định 76 của Bộ Chính trị về tăng cường mối quan hệ của đảng viên đang công tác ở cơ quan, đơn vị với cấp uỷ nơi cư trú.

Thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, vận động nhân dân tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước. Tiếp tục củng cố, xây dựng chính quyền vững mạnh, thực hiện có hiệu quả cải cách thủ tục hành chính.

Tập trung triển khai thực hiện những chủ trương trên, đến cuối năm 2003, năm bản lề của nhiệm kỳ 2001-2005, đồng thời là năm tăng tốc phát triển hướng tới kỷ niệm 200 năm đô thị tỉnh lỵ và 10 năm thành lập Thành phố, Đảng bộ và nhân dân Thành phố đã giành được những kết quả quan trọng.

Thực hiện chủ trương của Đảng bộ, Ủy ban nhân dân Thành phố đã ban hành nhiều quy định khuyến khích phát triển sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, tạo mặt bằng cho các cơ sở kinh tế tổ chức sản xuất, kinh doanh. Nhờ đó, kinh tế Thành phố tiếp tục tăng trưởng, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, các chỉ tiêu kinh tế cơ bản đều vượt kế hoạch, nhiều mô hình sản xuất, kinh doanh có hiệu quả được nhân lên.

Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tiếp tục phát triển. Thành phố có 2005 cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, tạo việc làm cho hơn 8.000 lao động. Phần lớn các cơ sở sản xuất, kinh doanh được trang bị kĩ thuật, công nghệ hiện đại, thực hiện liên doanh, liên kết, mở rộng thị trường, quy mô sản xuất, đa dạng hoá sản phẩm, tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho người lao động. Tổng giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đạt 774 tỉ đồng, bằng 104% kế hoạch, tăng 22,9% so với năm trước, trong đó công nghiệp ngoài quốc doanh đạt 281 tỉ đồng, bằng 107,2% kế hoạch; các thành phần kinh tế khác đều tăng từ 17 đến 37%.

Thương mại phát triển ổn định, tổng giá trị hoạt động thương mại- dịch vụ trên địa bàn Thành phố đạt 904 tỉ đồng, tăng 13% so với năm trước. Thu ngân sách đạt 98,49 tỉ đồng, bằng 157% kế hoạch Tỉnh giao và bằng 143% so với mức phấn đấu của Thành phố. Tổng chi ngân sách đạt 83,879 tỉ đồng, trong đó ngoài việc bảo đảm chi thường xuyên cho bộ máy của Thành phố, còn chi 57 tỉ đồng cho xây dựng cơ bản.

Sản xuất nông nghiệp khởi sắc, cơ cấu cây trồng, vật nuôi được chuyển dịch đúng hướng, kinh tế trang trại phát triển, nhất là ở các xã vùng ven Thành phố. Tổng giá trị toàn ngành nông lâm nghiệp đạt hơn 143 tỉ đồng. Trong đó, đàn lợn có 34.752 con, đạt 115% kế hoạch, tăng 19% so với cùng kỳ; đàn bò có 3.863 con (có hơn 400 bò Lai Sind), đạt 113% kế hoạch, tăng 13%, có 20 trang trại nuôi bò tập trung. Tổng diện tích gieo trồng cả năm 5.497,3 ha, đạt 109,6% kế hoạch; năng suất lúa vụ chiêm xuân đạt 56,2 tạ/ha, vụ mùa đạt 41,2 tạ/ha.

Văn hóa- xã hội tiếp tục phát triển, Thành phố dẫn đầu Tỉnh về giáo dục toàn diện và giáo dục mũi nhọn. Trong năm học có 773 học sinh giỏi cấp tỉnh, 18/18 phường xã đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, 12 trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia, 21/23 trường mầm non tổ chức học bán trú, số trẻ được ăn nghỉ tại trường đạt 70%.

Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” thấm sâu trong quần chúng nhân dân. Hoạt động văn hoá, thông tin bám sát các nhiệm vụ chính trị của Thành phố. Trong năm có thêm 50 phố, làng, cơ quan văn hoá, đạt 125% kế hoạch, nâng tổng số phố, làng văn hoá toàn Thành phố lên 212 đơn vị (gồm 180 phố, làng và 32 cơ quan), trong đó có 55 đơn vị.

Công tác y tế được chú trọng, chất lượng khám chữa bệnh được nâng lên. Công tác truyền thông dân số, bảo vệ bà mẹ và trẻ em được cấp uỷ, chính quyền và nhân dân quan tâm. Tỉ lệ tăng dân số tự nhiên đạt 0,6%, số người sinh con thứ 3 trở lên giảm còn 0,4%, trẻ em suy dinh dưỡng giảm còn 15%.

Chính sách xã hội được triển khai đồng bộ, đặc biệt là công tác xoá đói giảm nghèo. Thành phố hỗ trợ cho các hộ nghèo được vay 8,3 tỉ đồng, nâng tổng số vốn cho các hộ nghèo vay lên 23,4 tỉ đồng. Qua đó, số hộ nghèo giảm từ 5,91% còn 4,66%. Thành phố phát động Tháng hành động vì người nghèo, quyên góp được 206 triệu đồng, hỗ trợ xây dựng 8 nhà tình thương cho 8 hộ nghèo, trao tặng 4 nhà tình nghĩa cho 4 gia đình liệt sĩ, tiếp nhận 156 hài cốt liệt sĩ đưa về Nghĩa trang Liệt sĩ Hàm Rồng.

An ninh chính trị được giữ vững. Lực lượng vũ trang Thành phố bảo đảm yêu cầu sẵn sàng chiến đấu. Thành đội chỉ đạo chặt chẽ công tác huấn luyện quân sự đối với lực lượng dân quân, tự vệ và quân dự bị động viên, tổ chức diễn tập chiến đấu theo các cụm.

Công tác xây dựng Đảng có nhiều chuyển biến quan trọng. Thực hiện nhiệm vụ đề ra, các cấp ủy Đảng đã tập trung quán triệt triển khai thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, như: Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII, Nghị quyết Trung ương 7 khóa VIII, Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX, tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, tổng kết 5 năm thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở theo Chỉ thị 30 của Bộ Chính trị khóa VIII, tổ chức học tập tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh theo Chỉ thị số 23 của Ban Bí thư (khóa IX).... Việc quán triệt thực hiện chỉ thị, nghị quyết của Đảng gắn liền với nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của mỗi tổ chức đảng và đảng viên.

Đối với việc tổ chức hội nghị giữa nhiệm kỳ 2001-2005 và  Đại hội Đảng bộ, chi bộ cơ sở nhiệm kỳ 2003-2005, thực hiện Kế hoạch số 17- KH/TU ngày 9-4- 2003 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy và Hướng dẫn số 11-HD/TU ngày 11-4-2003 của Ban Tổ chức Tỉnh ủy về tiến hành đại hội tổ chức cơ sở đảng cơ quan đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp và lực lượng vũ trang, ngay trong ngày 11-4-2003, Ban Thường vụ Thành ủy ra Hướng dẫn số 09-HD/TU về đại hội Đảng bộ, chi bộ cơ sở nhiệm kỳ 2003-2005. Tiếp đó, ngày 14-5-2003, Ban Thường vụ Thành ủy ra Kế hoạch số 23-KH/TU về kiểm điểm thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ các cấp giữa nhiệm kỳ 2001-2005.

Với sự hướng dẫn và chỉ đạo chặt chẽ của Thành uỷ, các tổ chức cơ sở Đảng  đã thực hiên tốt công tác chuẩn bị hội nghị giữa nhiệm kỳ và đại hội nhiệm kỳ 2003-2005. Báo cáo kiểm điểm giữa nhiệm kỳ của các đảng bộ khối phường, xã đã nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng những kết quả đạt được trong việc thực hiện các mục tiêu đề ra; chỉ rõ những thiếu sót, khuyết điểm cũng như các nguyên nhân của thiếu sót, khuyết điểm đó; đồng thời đề ra những giải pháp cụ thể, tiếp tục lãnh đạo thực hiện những mục tiêu còn lại đến hết nhiệm kỳ.

Cùng với việc tổ chức thành công hội nghị giữa nhiệm kỳ của các tổ chức cơ sở đảng khoá 2001-2005 và đại hội nhiệm kỳ 2003-2005, Ban Thường vụ Thành uỷ tập trung chỉ đạo các cấp uỷ đảng, các phòng, ban ngành của thành phố triển khai thực hiện Hướng dẫn số 17 của Ban Tổ chức trung ương và Hướng dẫn số 14 của Ban Tổ chức Tỉnh uỷ về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kì công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Đến cuối năm 2003, tất cả phường, xã và phần lớn các cơ quan hành chính, sự nghiệp và doanh nghiệp đã xây dựng xong quy hoạch cán bộ nhiệm kỳ 2005-2010, trước mắt là tập trung nguồn nhân sự cho cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân vào năm 2004 và đại hội đảng bộ các cấp vào năm 2005.

Để đổi mới và nâng cao năng lực lãnh đạo cho đội ngũ cán bộ phường, xã, tạo nguồn cán bộ cho Thành phố trong các nhiệm kỳ tiếp theo, năm 2002, Ban Thường vụ Thành ủy đã xin chủ trương của ban Thường vụ Tỉnh ủy cho Thành phố thực hiện luân chuyển cán bộ trẻ được đào tạo chính quy, có triển vọng phát triển về phường, xã đảm nhận các chức danh chủ chốt. Chủ trương, kế hoạch đó đã được sự đồng ý của Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Thành ủy đã điều động, luân chuyển 9 cán bộ lãnh đạo một số phòng, ban của Thành phố về đảm nhận các chức danh chủ chốt Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân ở các phường, xã: Đông Thọ, Hàm Rồng, Đông Hương, Ngọc Trạo, Nam Ngạn, Lam Sơn, Điện Biên.

Nhờ làm tốt công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, các cấp ủy đã kịp thời phát hiện và ngăn ngừa dấu hiệu vi phạm, giải quyết những vấn đề nổi cộm trong trong quá trình thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII. Thành uỷ và cấp uỷ cơ sở xử lí kỷ luật 45 đảng viên vi phạm khuyết điểm, trong đó khiển trách 21, cảnh cáo 18, cách chức 1, khai trừ 5, đưa ra khỏi Đảng bằng các hình thức khác 13. Công tác phát triển đảng viên được chú ý hơn, đã kết nạp 264 đảng viên mới.

Những thành tựu trên tất cả các mặt kinh tế -xã hội, quốc phòng, an ninh, đặc biệt là kết quả hội nghị giữa nhiệm kỳ của các tổ chức cơ sở Đảng khoá 2001-2005 và Đại hội nhiệm kỳ 2003-2005 của các Đảng bộ, chi bộ có ý nghĩa quan trọng để Đảng bộ Thành phố tiếp tục thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ còn lại của kế hoạch 5 năm (2001-2005) .

XÂY DỰNG THÀNH PHỐ TRỞ THÀNH ĐÔ THỊ LOẠI II, HOÀN THÀNH KẾ HOẠCH 5 NĂM (2001-2005)

Tập trung lãnh đạo xây dựng và hoàn thiện các tiêu chí của đô thị loại II

Thành phố Thanh Hóa là trung tâm chính trị, hành chính, kinh tế - xã hội, văn hoá, khoa học của tỉnh, có vị trí quan trọng về an ninh, quốc phòng và có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của cả Tỉnh. Trong thời kỳ đổi mới, được sự quan tâm của Trung ương Đảng, Chính phủ, sự ưu tiên đầu tư của Tỉnh và sự nỗ lực của Đảng bộ, chính quyền và các tầng lớp nhân dân, là động lực để Thành phố đẩy nhanh tốc độ phát triển đô thị. Đặc biệt, kể từ khi có Nghị quyết 02-NQ/TU ngày 26 - 3 - 1997 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về xây dựng phát triển Thành phố đến năm 2010, Đảng bộ Thành phố đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng, phát triển Thành phố một cách toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá, bộ mặt đô thị có nhiều đổi mới, cơ sở hạ tầng kĩ thuật phục vụ sản xuất và đời sống được quan tâm đầu tư, đời sống vật chất tinh thần của nhân dân được cải thiện, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm. Tuy nhiên, tốc độ xây dựng phát triển đô thị còn chậm, việc bố trí đầu tư còn dàn trải, thiếu tập trung, chưa tạo được thay đổi căn bản bộ mặt đô thị, chưa có điểm nhấn của các khu trung tâm. Một số tiêu chí đô thị loại II chưa đạt được theo Nghị định số 72/2002/NĐ-CP ngày 5-10-2001 của Chính phủ.

Để đạt được các tiêu chí của đô thị loại II và được Chính phủ công nhận vào đầu năm 2004 nhân kỷ niệm 200 năm đô thị tỉnh lỵ, 10 năm thành lập Thành phố Thanh Hóa, ngày 14-2-2003, Ban Thường vụ Thành ủy đề xuất với Ban Thường vụ Tỉnh ủy một số cơ chế xây dựng, phát triển Thành phố Thanh Hóa. Thường vụ Thành ủy đề nghị Tỉnh ủy tập trung chỉ đạo đầu tư một số công trình trọng điểm và có cơ chế tạo điều kiện thuận lợi cho Thành phố thực hiện việc chỉnh trang, xây dựng một số dự án, công trình trọng điểm khu trung tâm, như: Quảng trường Lê Lợi, Công viên văn hóa trung tâm, Công viên Hồ Thành (khu vực I, giai đoạn 2), Quảng trường Lam Sơn, Đại lộ Lê Lợi kéo dài; nâng cấp một số tuyến đường nội thành (đường Lê Hoàn, Cao Thắng, Đinh Công Tráng, Hàng Đồng, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Minh Khai, Tống Duy Tân, Lê Hồng Phong, Phan Chu Trinh, Quốc lộ 1A đoạn qua Thành phố) theo hướng đồng bộ, hiện đại, bao gồm cả mặt đường, thoát nước, vỉa hè, cây xanh, điện chiếu sáng; hỗ trợ các phường, xã đầu tư hoàn chỉnh các tuyến đường trục ngoại thành theo phương thức Nhà nước và nhân dân cùng làm; tập trung hoàn thành một số khu tái định cư để phục vụ giải phóng mặt bằng cho các dự án).

Đẩy nhanh tiến độ thực hiện những công trình do Trung ương và Tỉnh đầu tư trên địa bàn Thành phố, như: đại lộ Bắc - Nam, cầu vượt đường sắt, dự án nâng cấp Quốc lộ 1A, Quốc lộ 47, Quốc lộ 45, dự án mở rộng khu công nghiệp Lễ Môn, dự án khu công nghiệp Đình Hương.

Để các công trình trên được triển khai thực hiện đúng tiến độ, bảo đảm chất lượng, hoàn thành vào dịp kỷ niệm 200 năm đô thị tỉnh lỵ, 10 năm thành lập Thành phố, vấn đề đặt ra là cần có một số cơ chế đặc thù về trách nhiệm của chủ đầu tư, thủ tục đầu tư, phương thức đầu tư và về tài chính.

Những kiến nghị của Thành ủy về các nội dung trên đã được Ban Thường vụ Tỉnh uỷ xem xét và chỉ đạo cụ thể. Trên cơ sở đó, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thành phố tiếp tục nỗ lực phấn đấu tập trung xây dựng Thành phố sớm đạt các tiêu chí của đô thị loại II.

Trong năm 2003, Thành phố có 8 quy hoạch chi tiết được phê duyệt và nhiều dự án khác được điều chỉnh bổ sung trình tỉnh phê duyệt. Tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản đạt 867 tỉ đồng, bằng 104,4% kế hoạch, tăng 72% so với năm trước. Các công trình xây dựng cơ bản trọng điểm được tập trung đẩy nhanh tiến độ, như: Quảng trường Lê Lợi, Đại lộ Lê Lợi kéo dài, Trung tâm thương mại, công viên văn hóa thể thao, cầu vượt đường sắt, khu đô thị đông bắc ga, dự án điện Thanh Hóa – Sầm Sơn, khách sạn Sao Mai, trường đại học Hồng Đức, làng SOS. Một số công trình đã hoàn thành và đưa vào sử dụng, như: chợ Đông Thọ, trụ sở một số phường xã, trường học cao tầng. Triển khai thực hiện chỉnh trang 31 tuyến đường nội thành; tiếp tục làm đường giao thông theo phương thức Nhà nước và nhân dân cùng làm nhằm cải thiện cơ sở hạ tầng kĩ thuật ở các khu dân cư. Công tác quản lý đô thị được tăng cường, các công trình xây dựng theo quy hoạch được duyệt. Thành phố cấp 5.400 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đạt 108% kế hoạch. Trật tự đô thị và an toàn giao thông chuyển biến tích cực. Số vụ tai nạn giao thông giảm 24,4%, số người chết do tai nạn giao thông giảm 18,6%.

Với những kết quả đạt được, giữa tháng 12- 2003, Ban chấp Đảng bộ Thành phố đã đề ra nhiệm vụ xây dựng, phát triển Thành phố năm 2004, tiếp tục tập trung hoàn thành các công trình, dự án đã triển khai theo đúng kế hoạch; phát động nhân dân tham gia xây dựng hệ thống giao thông, các công trình phúc lợi xã hội theo phương thức Nhà nước và nhân dân cùng làm; thực hiện chỉnh trang đô thị thị theo tiêu chí đô thị loại II, làm cho Thành phố ngày càng khang trang, sạch đẹp; đẩy mạnh tiến độ giải phóng mặt bằng tạo điều kiện xây dựng các khu đô thị mới, các dự án, công trình trọng điểm. Đồng thời, Thành phố tiến hành rà soát bổ sung quy hoạch và định hướng không gian phát triển Thành phố đến năm 2020. Phối hợp với các ngành trình Uỷ ban nhân dân Tỉnh phê duyệt 3 quy hoạch chi tiết còn lại, đồng thời tích cực xây dựng quy hoạch trung tâm các xã ngoại thành và triển khai xây dựng các khu đô thị mới.

Với những thành tích đạt được trong xây dựng và phát triển Thành phố thời kỳ đổi mới, ngày 6 tháng 4 năm 2004, Chủ tịch Nước ra Quyết định số 174-QĐ tặng thưởng chính quyền và nhân dân Thành phố Thanh Hóa Huân chương Độc lập hạng Ba.

Cùng với niềm vui trước phần thưởng cao quý Đảng và Nhà nước tặng thưởng, trước sự phát triển của Thành phố thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ngày 29-4-2004, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định Quyết định số 72/2004/QĐ-TTg công nhận Thành phố Thanh Hóa thuộc Tỉnh Thanh Hóa là đô thị loại II. Thành phố có tổng diện tích 58,58 km2, dân số gần 200.000 người, với 12 phường nội thành và 6 xã ngoại thành, gồm: các phường Hàm Rồng, Đông Thọ, Trường Thi, Nam Ngạn, Điện Biên, Phú Sơn, Tân Sơn, Ba Đình, Lam Sơn, Đông Sơn, Ngọc Trạo, Đông Vệ và các xã Đông Cương, Đông Hương, Quảng Hưng, Quảng Thành, Quảng Thắng, Đông Hải.

. Đô thị loại II  gồm các tiêu chí sau đây :

Đô thị với chức năng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật, du lịch, dịch vụ, đầu mối giao thông, giao lưu trong vùng tỉnh, vùng liên tỉnh hoặc cả nước, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của một vùng lãnh thổ liên tỉnh hoặc một số lĩnh vực đối với cả nước;

Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp trong tổng số lao động từ 80% trở lên;

Có cơ sở hạ tầng được xây dựng nhiều mặt tiến tới tương đối đồng bộ và hoàn chỉnh;

Quy mô dân số từ 25 vạn người trở lên;

Mật độ dân số bình quân từ 10.000 người/km2 trở lên.

 

Để thực hiện tốt công tác chuẩn bị và tổ chức tốt lễ kỷ niệm 200 năm đô thị tỉnh lỵ, 10 năm thành lập Thành phố, công bố Quyết định nâng cấp Thành phố Thanh Hóa là đô thị loại II, đón nhận Huân chương Độc lập hạng Ba, ngày 14-7-2004, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ tổ chức Hội nghị bàn kế hoạch tổ chức lễ kỷ niệm, xác định thời gian tổ chức sự kiện trọng đại này vào cuối tháng 11 -2004.

Ban Thường vụ Thành uỷ thành lập Ban Chỉ đạo tổ chức lễ kỷ niệm. Uỷ ban nhân dân Thành phố xây dựng phương án, chương trình lễ hội và trình Uỷ ban nhân Tỉnh phê duyệt.

Thực hiện sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, đến cuối năm 2004, kinh tế- xã hội của Thành phố tiếp tục phát triển mạnh, đời sống nhân dân được nâng lên, văn minh đô thị được tăng cường, chính trị ổn định, an ninh được giữ vững; công tác chuẩn bị lễ kỷ niệm chu đáo. Trên cơ sở đó, ngày 29-11-2004, Thành uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân Thành phố tổ chức trọng thể lễ đón nhận Huân chương Độc lập hạng Ba và công bố Quyết định của Thủ tướng Chính phủ công nhận Thành phố Thanh Hóa thuộc tỉnh Thanh Hóa là đô thị loại II. Phát biểu tại buổi lễ, đồng chí Trương Quang Được, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Quốc hội khẳng định: Đây là dịp để Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc tỉnh Thanh Hóa ôn lại truyền thống vẻ vang trong suốt chiều dài lịch sử đấu tranh giành độc lập, bảo vệ Tổ quốc, xây dựng và phát triển; tưởng nhớ các thế hệ cha anh, các anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống; cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của Trung ương, của các địa phương cùng đồng bào cả nước, đồng bào ta ở nước ngoài và bạn bè quốc tế, “để hôm nay có một tỉnh Thanh Hóa, một Thành phố Thanh Hóa đang sánh vai cùng các tỉnh, thành phố trong cả nước vững bước trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Những thành quả to lớn đạt được thể hiện sự nỗ lực vượt bậc của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thành phố. Chỉ sau 10 năm được công nhận là Thành phố loại III, Thành phố Thanh Hóa đã trở thành Thành phố loại II với chức năng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá- xã hội, khoa học kỹ thuật của tỉnh; là đầu mối giao thông kết nối giữa các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ với các tỉnh miền trung và cả nước. Điều đó khẳng định tốc độ phát triển nhanh, mạnh của Thành phố. Đảng, Nhà nước đánh giá cao những cố gắng, nỗ lực và những thành tích về phát triển kinh tế-xã hội, quốc phòng-an ninh, đối ngoại của Đảng bộ và nhân dân Thành phố đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng và chấn hưng đất nước.

Để Thành phố Thanh Hóa phát triển nhanh, mạnh, vững chắc hơn nữa trong những năm tiếp theo, đồng chí Trương Quang Được đề nghị Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thành phố cũng như toàn Tỉnh Thanh Hóa quan tâm một số vấn đề:

Một là: Tập trung xây dựng, hoàn chỉnh quy hoạch đồng bộ, gắn với tổ chức thực hiện có hiệu quả và quản lý chặt chẽ quy hoạch đã được duyệt. Trên cơ sở quy hoạch, cần xây dựng các chương trình, dự án cụ thể, xác định nguồn vốn đầu tư, động viên các thành phần kinh tế và nhân dân tham gia xây dựng và phát triển đô thị. Xây dựng đồng bộ và hiện đại hóa kết cấu hạ tầng đô thị.

Hai là: Đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội, tạo bước phát triển mạnh hơn về tốc độ và chất lượng tăng trưởng, bảo đảm tính bền vững; tập trung cải thiện môi trường đầu tư; tạo chuyển biến rõ nét trong cải cách hành chính; giữ vững ổn định chính trị, quốc phòng-an ninh.

Có chính sách đào tạo, sử dụng, thu hút nhân tài gắn với chiến lược phát triển nguồn nhân lực.

Ba là: Chăm lo đời sống nhân dân; chú ý xóa đói, giảm nghèo; giải quyết việc làm, phát triển giáo dục-đào tạo, y tế, khoa học-công nghệ; giải quyết các vấn đề xã hội; phòng chống tệ nạn xã hội; xây dựng nếp sống văn minh, thanh lịch.

Bốn là: các tổ chức trong hệ thống chính trị phải đặc biệt quan tâm đến công tác xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh; phát huy quyền làm chủ của nhân dân; thắt chặt mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân. Tích cực đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Xây dựng đội ngũ cán bộ tài năng, biết đoàn kết, tập hợp được sức mạnh của toàn dân vào sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa quê hương đất nước.

Hoàn thành kế hoạch 5 năm 2001-2005

Đầu năm 2004, Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương tổ chức tổng kết nửa nhiệm kỳ khóa IX và đề ra các nhiệm vụ, giải pháp nhằm tiếp tục thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần IX. Hội nghị xác định trong những năm còn lại của kế hoạch 5 năm (2001-2005) cần phải đẩy nhanh nhịp độ tăng trưởng kinh tế; tiếp tục xây dựng đồng bộ cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tháo gỡ những vướng mắc về cơ chế, chính sách nhằm giải phóng sức sản xuất; đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, đồng thời phát triển không hạn chế quy mô doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác;... Hội nghị tiếp tục khẳng định phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt.

Đây là chủ trương lớn của Ban Chấp hành Trung ương, định hướng cho các tổ chức Đảng tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các nhiệm vụ đề ra trong nhiệm kỳ của mình. Đối với Đảng bộ Thành phố Thanh Hóa, ngay từ cuối tháng 12-2003, Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố đã đề ra phương hướng nhiệm vụ chung của năm 2004, đó là: Phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo, tranh thủ mọi thời cơ thuận lợi, tích cực khắc phục những yếu kém khó khăn, huy động mọi nguồn lực đẩy mạnh phát triển sản xuất kinh doanh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo bước đột phá về phát triển kinh tế, phấn đấu để Thành phố thực sự là trung tâm chính trị, kinh tế văn hoá xã hội, khoa học, kĩ thuật của cả tỉnh. Xây dựng và chỉnh trang đô thị theo tiêu chí của đô thị loại II. Nâng cao chất lượng hoạt động văn hoá xã hội, kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế- xã hội với củng cố quốc phòng - an ninh, tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, xây dựng chính quyền trong sạch vững mạnh, đổi mới hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn  thể chính trị-xã hội, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, phấn đấu xây dựng Thành phố ngày càng văn minh hiện đại, phát triển nhanh và vững chắc.

Các mục tiêu chủ yếu:

Về kinh tế,  tổng sản phẩm quốc nội trên địa bàn (GDP) tăng 16%, bình quân đầu người 929 USD; tăng trưởng các ngành kinh tế chủ yếu: công nghiệp 22-23%, dịch vụ- thương mại 13%, nông nghiệp 6%. Cơ cấu kinh tế công nghiệp-dịch vụ- nông nghiệp trong GDP có tỉ trọng 38% - 57% - 5%.

Tổng vốn đầu tư toàn xã hội 900 tỉ đồng. Thu ngân sách tăng 10% so với kế hoạch tỉnh giao.

Về văn hóa-xã hội, duy trì phổ cập tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập trung học cơ sở và từng bước hoàn thành phổ cập trung học phổ thông, xây dựng một trường đạt chuẩn quốc gia, chuyển một số trường trung học cơ sở và tiểu học sang bán công.

Giảm mức sinh xuống 0,2%0, tỉ lệ tăng dân số tự nhiên 0,7%. Hạ tỉ lệ đói nghèo xuống dưới 4%. Hạ tỉ lệ thất nghiệp xuống dưới 5%. Giảm tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng xuống dưới 14%.

Tỉ lệ gia đình văn hoá  đạt 75% trở lên, gia đình thể thao 38% trở lên; 85% phố làng văn hoá.

Đảm bảo quốc phòng-an ninh, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Hoàn thành chỉ tiêu giao quân năm 2004 và huấn luyện quân sự đạt chất lượng tốt. Phấn đấu 100% đơn vị cơ sở an toàn làm chủ-sẵn sàng chiến đấu và thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở.

Về xây dựng hệ thống chính trị, tổ chức bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân 3 cấp có tỉ lệ cử tri tham gia cao và đúng luật. Phấn đấu 80% cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh.

Để thực hiện được những mục tiêu trên, Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố đề ra các giải pháp chủ yếu sau:

Về kinh tế, tiếp tục đẩy mạnh phát triển công nghiệp ngoài quốc doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nhằm thu hút vốn, khuyến khích phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nâng cao chất lượng và mở rộng hoạt động thương mại, phấn đấu tổng mức bán lẻ hàng hoá, dịch vụ đạt 1.030 tỉ đồng. Phát triển đa dạng các loại hình dịch vụ, nhất là dịch vụ phục vụ sản xuất, du lịch, dịch vụ xuất khẩu nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu về sản xuất và đời sống của nhân dân. Trong nông- lâm nghiệp, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi hướng tới mục tiêu cánh đồng 50 triệu đồng/ ha, hộ gia đình có thu nhập 40-50 triệu đồng/ năm. Phấn đấu giá trị sản xuất nông - lâm nghiệp đạt 1150,6 tỉ đồng, tăng 6% so với năm 2003; tổng diện tích gieo trồng cả năm 5487 ha, diện tích rau an toàn 15 ha, hoa chất lượng cao 2 ha, bò Lai sind 700 con, đàn lợn 36.000 con, trong có 1700 con lợn hướng nạc đủ tiêu chuẩn xuất khẩu, 500 lợn nái ngoại hướng nạc, cá thâm canh 30 ha.

Về xây dựng, quy hoạch và quản lý đô thị, tập trung hoàn thành việc rà soát, bổ sung quy hoạch và định hướng phát triển đến năm 2020; đẩy mạnh tiến độ thi công các công trình trọng điểm như cầu vượt đường sắt, trung tâm thương mại, công viên văn hoá thể thao, đường Lê Lợi kéo dài; triển khai dự án xây dựng nhà ở cho người có thu nhập thấp, công nhân khu công nghiệp; chỉnh trang các tuyến phố nội thành,…

Về các lĩnh vực văn hoá- xã hội, đẩy mạnh xã hội hoá lĩnh vực văn hoá xã hội, tiếp tục thực hiện cuộc vân động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở nơi dân cư, trọng tâm là xây dựng phố, làng , cơ quan văn hoá, xây dựng nếp sống văn minh đô thị; giữ vững danh hiệu đơn vị dẫn đầu tỉnh về chất lượng giáo dục toàn diện; tổ chức tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân về Pháp lệnh dân số, chủ động phòng chống các loại dịch bệnh, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cho nhân dân; tiếp tục đẩy mạnh công tác xoá đói giảm nghèo, tập trung giải quyết việc làm tai chỗ, đẩy mạnh xuất khẩu lao động, phấn đấu giảm tỉ lệ hộ đói nghèo xuống dưới 4%, giảm tỉ lệ thất nghiệp xuống dưới 5%.

Về quốc phòng- an ninh, hoàn thành việc gọi thanh niên nhập ngũ, nâng cao chất lượng huấn luyện dân quân tự vệ, dự bị động viên; củng cố vững chắc nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng cụm tuyến an toàn làm chủ-sẵn sàng chiến đấu gắn với thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, xây dựng phố, xóm không có tệ nạn xã hội và tội phạm.

Tiếp tục kiện toàn bộ máy chính quyền các cấp theo hướng gọn nhẹ, có hiệu quả; đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân; đẩy mạnh cải cách  hành chính; tổ chức tốt cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp; thực hiện luân chuyển cán bộ xuống cơ sở,…

Về công tác xây dựng Đảng, tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) về cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên; đảng viên nói và làm theo nghị quyết; chủ động rà soát bổ sung quy hoạch cán bộ, xây dựng kế hoạch đào tạo bồi dưỡng cán bộ theo các tiêu chuẩn quy định đối với các chức danh; chuẩn bị nhân sự cho cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp vào quý 2 năm 2004 và đại hội Đảng các cấp trong năm 2005.

Với những giải pháp đồng bộ nêu trên, Đảng bộ và nhân dân Thành phố đã nỗ lực phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ đề ra.

Trong năm 2004, các cơ sở kinh tế chủ động nắm bắt thị trường, đổi mới phương thức hoạt động, thực hiện liên doanh, liên kết, đầu tư chiều sâu, áp dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật, mở rộng quy mô, đa dạng hoá  sản phẩm, sắp xếp lại tổ chức bộ máy, đẩy mạnh các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, do những khó khăn về giá cả, thời tiết không thuận lợi nên một số chỉ tiêu không đạt kế hoạch đề ra. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 15,1% (thấp hơn kế hoạch 0,9%) nhưng vẫn tăng gấp 3 lần so với năm 1994, GDP bình quân đầu người đạt 950 USD (tăng 30 USD so với kế hoạch), gấp 2,2 lần so với năm 1994. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XVII đề ra. Tỉ trọng giá trị công nghiệp - thương mại, dịch vụ - nông, lâm nghiệp trong GDP là 37%- 55,8%- 7,2% (chưa đạt kế hoạch đề ra). Giá trị sản xuất công nghiệp đạt 1.014,2 tỉ đồng, tăng 32% so với năm trước, trong đó công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp ngoài quốc doanh đạt 403,7 tỉ đồng, bằng 125% kế hoạch, tăng 37% so với năm trước. Giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 40 triệu USD, tăng 25% so với năm trước. Giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 153 tỉ đồng, bằng 102% kế hoạch, tăng 6,5% so với năm trước. Thu ngân sách trên địa bàn đạt 147,2 tỉ đồng, bằng 112% kế hoạch tỉnh giao, tăng 16% so với năm trước, nhưng chỉ đạt 60% kế hoạch của Thành phố.


. Sau Hội nghị này, ngày 29- 7-2004, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ ra Kết luận số 06-KL/TU Về tổ chức kỷ niệm 200 năm đô thị tỉnh lỵ, 10 năm thành lập Thành phố, công bố Quyết định nâng cấp Thành phố Thanh Hóa là đô thị loại II.

Bài phát biểu của Đồng chí Trương Quang Được, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Quốc hội tại Lễ mít tinh kỷ niệm 200 năm đô thị Thanh Hóa, 10 năm thành lập Thành phố, đón nhận Quyết định công nhận Thành phố Thanh Hóa là đô thị loại II và Huân chương Độc lập hạng Ba, tr.2

 

 

Trong công tác quy hoạch, quản lý đô thị, có nhiều công trình, hạng mục công trình được hoàn thành và đưa vào sử dụng trong dịp kỷ niệm 200 năm đô thị tỉnh lỵ, 10 năm thành lập Thành phố, đón nhận Quyết định của Thủ tướng chính phủ nâng cấp Thành phố là đô thị loại II và đón nhận Huân chương Độc lập hạng Ba. Bộ mặt đô thị khang trang, xanh hơn, sáng hơn, đẹp hơn. Tuy nhiên còn một chỉ tiêu quan trọng chưa thực hiện được. Tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản chỉ đạt 550 tỉ đồng, bằng 67% kế hoạch và 65% so với năm trước. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn những hạn chế, trong năm cấp được 6.000 giấy, nâng tổng số lên 26.500/43.000 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đạt 62%.

Công tác quy hoạch mở rộng không gian đô thị Thành phố đến năm 2020 được triển khai. Ngày 17-8-2004, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ ra Thông báo kết luận số 555- TB/TU về định hướng điều chỉnh quy hoạch chung mở rộng địa giới hành chính Thành phố Thanh Hóa đến năm 2020. Kết luận nêu rõ: Việc điều chỉnh quy hoạch chung và mở rộng địa giới hành chính Thành phố để tương xứng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của tỉnh đất rộng, người đông là cần thiết. Hướng mở rộng không gian Thành phố chủ yếu về phía đông, có thể nối liền với Thị xã Sầm Sơn, đồng thời nghiên cứu thêm một số xã ở các huyện lân cận, như Hoàng Hoá, Thiệu Hoá, Đông Sơn. Diện tích tự nhiên của Thành phố sau khi mở rộng là 10.000 ha trở lên. Trong quá trình quy hoạch cần xác định rõ các phân khu chức năng như: các khu dân cư, khu hành chính, khu trung tâm đào tạo, khu trung tâm thương mại, văn hoá, khu công nghiệp, khu du lịch,….và hệ thống giao thông, hạ tầng kĩ thuật.

Đây là chủ trương, định hướng quan trọng của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về mục đích ý, nghĩa và định hướng mở rộng Thành phố. Chủ trương này mở ra cơ hội to lớn cho công cuộc đẩy mạnh xây dựng và phát triển Thành phố ngày càng giàu đẹp, văn minh, hiện đại.

Hoạt động văn hoá- xã hội có nhiều khởi sắc, đặc biệt là các hoạt động tổ chức lễ kỷ niệm 200 năm đô thị tỉnh lỵ, 10 năm thành lập Thành phố, đón nhận Huân chương Độc lập hạng Ba và trở thành đô thị loại II. 

Trong giáo dục, chất lượng dạy và học được nâng lên; tình trạng dạy thêm, học thêm trái quy định giảm; chủ trương xã hội hoá giáo đáp ứng yêu cầu học tập của nhân dân. Thành phố tiếp tục giữ vững danh hiệu đơn vị dẫn đầu tỉnh về chất lượng giáo dục toàn diện.

Các cơ sở y tế thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, không để xảy ra dịch bệnh, đảm bảo việc khám chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân. Công tác truyền thông dân số, chăm sóc bà mẹ và trẻ em được quan tâm. Tỉ lệ phát triển dân số tự nhiên dưới 0,7%, đạt chỉ tiêu đề ra. Đội ngũ cán bộ y tế và cơ sở vật chất, thiết bị kĩ thật được tăng cường. Thành phố có thêm 4 trạm xá phường, xã đạt chuẩn quốc gia.

Các đối tượng chính sách được quan tâm, đời sống ổn định. Công tác xoá đói, giảm nghèo có nhiều tiến bộ, Thành phố chỉ còn 1.511 hộ nghèo, chiếm 3,56%. Theo Chỉ thị 08 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, các cấp, ngành tích cực thực hiện việc xoá nhà tranh tre nứa lá, tạm bợ, đã xây dựng ủng hộ 40 nhà nghèo, với tổng giá trị 415 triệu đồng.

Công tác quốc phòng - an ninh được bảo đảm. Thành phố thành lập Ban chỉ đạo giáo dục quốc phòng, hoàn thành kế hoạch tuyển quân và kế hoạch huấn luyện quân sự; thực hiện nghiêm chế độ trực sẵn sàng chiến đấu, tổ chức diễn tập khu vực phòng thủ, kết hợp với nhiệm vụ phòng chống lụt bão và tìm kiếm cứu nạn.

An ninh trên địa bàn được giữ vững, đặc biệt là công tác bảo đảm an toàn các ngày lễ lớn và các sự kiện của Thành phố. Lực lượng an ninh đã mở nhiều đợt cao điểm truy quét các loại tội phạm và tệ nạn xã hội, giữ gìn trật tự, an toàn giao thông, không để bọn tội phạm có tổ chức, lưu manh chuyên nghiệp, tội phạm theo kiểu xã hội đen hoạt động trên địa bàn Thành phố.

Ngay từ đầu năm 2004, các cấp uỷ đã tập trung chuẩn bị cho cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2004-2009. Trên cơ sở đó, cuộc bầu cử đã thành công tốt đẹp, số cử tri đi bầu đạt 99,4%. Các đơn vị bầu cử bầu đủ số đại biểu theo quy định, không có đơn vị phải bầu thêm, bầu bổ sung, trong đó: đại biểu Hội đồng nhân dân Thành phố 39 người, đại biểu Hội đồng nhân dân 18 phường, xã 461 người. Tỉ lệ đại biểu trúng cử là nữ và trẻ tuổi cao hơn khoá trước.

Sau bầu cử, Hội đồng nhân dân Thành phố và các phường, xã đã tổ chức kì họp thứ nhất, kiện toàn bộ máy của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, xây dựng quy chế hoạt động, chương trình công tác. Các chức danh được bầu tại kì họp thứ nhất Hội đồng nhân dân Thành phố và các phường, xã đều bảo đảm chất lượng, đúng với định hướng giới thiệu nhân sự của các cấp uỷ.

Tại kì họp thứ nhất Hội đồng nhân dân Thành phố nhiệm kỳ 2004-2009, đồng chí Hoàng Văn Hoằng được bầu làm Chủ tịch Hội đồng nhân dân; đồng chí Nguyễn Ngọc Hồi, Phó Bí thư Thành uỷ được bầu làm Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Thành phố.

Uỷ ban nhân dân các cấp tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chương trình cải cách nền hành chính quốc gia, trong đó tập trung cải cách thủ tục hành chính và chỉ đạo thực hiện các chương trình phát triển kinh tế -xã hội.

Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng và phát triển Thành phố. Mặt trận và các tổ chức chính trị-xã hội tập trung củng cố tổ chức bộ máy, kết nạp thêm 5.000 hội viên, đoàn viên mới; đã tổ chức nhiều cuộc thi, các cuộc vận động: Cán bộ làm công tác dân vận khéoToàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư; Ngày vì người nghèo; Ủng hộ xây dựng nhà cho người nghèo, xoá nhà tranh, tre nứa lá, tạm bợ ... được nhân dân Thành phố đồng tình ủng hộ. Riêng cuộc vận động ủng hộ xây dựng nhà cho người nghèo, xoá nhà tranh, tre nứa lá, tạm bợ, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức quần chúng đã quyên góp được 257 triệu đồng trong tổng số 415 triệu đồng.

Về công tác xây dựng Đảng, trong năm 2004, toàn Đảng bộ tập trung triển khai thực hiện các nghị quyết của Trung ương: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa IX  và Kết luận của Hội nghị Trung ương 10 khoá IX; sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII về tiếp tục xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; sơ kết 2 năm thực hiện Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị về công tác tư pháp...

Nhằm nâng cao nhận thức, trình độ lý luận cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, Thành uỷ đã phối hợp tổ chức 17 lớp đào tạo-bồi dưỡng cho 892 học viên, trong đó có 1 lớp trung cấp lí luận. Thông qua các hội nghị quán triệt nghị quyết, sơ kết, tổng kết việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, của Tỉnh và Thành phố, trình độ nhận thức về chính trị của cán bộ, đảng viên được nâng lên, tư tưởng ổn định, góp phần tăng cường, củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng bộ.

Công tác tổ chức, cán bộ tập trung hướng về cơ sở nhằm xây dựng tổ chức Đảng trong sạch vững mạnh. Các cấp uỷ thường xuyên theo dõi việc đảng viên và tổ chức Đảng chấp hành Điều lệ Đảng, quản lý đảng viên, duy trì sinh hoạt chi bộ, thực hiện đấu tranh tự phê bình và phê bình nhằm nâng cao sức chiến đấu của Đảng. Đồng thời các cấp uỷ tổ chức nghiêm túc việc đổi thẻ đảng cho đảng viên. Toàn Đảng bộ có 10912/11373 đảng viên được đổi thẻ. Trong năm, thành lập mới 4 chi bộ cơ sở, nâng tổng số lên 105 đảng bộ, chi bộ cơ sở, trong đó có 67 đảng bộ, 38 chi bộ cơ sở. Các chi bộ tổ chức kết nạp thêm 266 đảng viên mới, trong đó 60 % đảng viên trẻ và 70% có trình độ đại học.

Các cấp uỷ làm tốt công tác giới thiệu người ra ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân và các chức danh chủ chốt của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân Thành phố, phường, xã, bảo đảm chất lượng, đúng quy trình và đúng luật. Ban Thường vụ Thành uỷ giới thiệu để Ủy ban nhân dân Thành phố bổ nhiệm 7 cán bộ giữ các chức vụ: trưởng, phó phòng, ban, ngành, đoàn thể của Thành phố; thoả thuận với với các ngành của tỉnh bổ nhiệm lại 11 cán bộ và điều động 3 cán bộ thuộc các ngành chuyên môn; cử 11 cán bộ trong diện quy hoạch đi học cao cấp lí luận chính trị, 6 cán bộ dự thi cao học; mở lớp cho 101 cán bộ Thành phố và phường, xã tham gia khoá học trung cấp lí luận chính trị tại Thành phố; luân chuyển và điều động 8 cán bộ Thành phố tăng cường cho 5 phường và 1 xã.

Công tác kiểm tra đã kịp thời xử lí 159 đơn, thư khiếu nại, tố cáo của đảng viên và công dân. Nội dung đơn, thư tập trung tố cáo các hành vi vi phạm trong xây dựng cơ bản, quản lý đất đai và về phẩm chất, năng lực của một số cán bộ đảng viên. Những đơn, thư chủ yếu trong thời gian chuẩn bị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Qua kiểm tra, có 45 đảng viên bị xử lí kỷ luật, trong đó: khiển trách 37, cảnh cáo 5, khai trừ 3.

Những kết quả đạt được trên tất cả các mặt kinh tế - xã hội, quốc phòng- an ninh và xây dựng Đảng trong năm 2004 tạo đà cho Đảng bộ và nhân dân Thành phố Thanh Hóa tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XVII, hoàn thành những nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm 2001-2005.

Thực hiện những chủ trương và biện pháp đề ra, trong năm 2005, năm kết thúc nhiệm kỳ Đảng bộ thành phố khoá XVII, năm cuối của kế hoạch 5 năm 2001-2005, Đảng bộ và nhân dân Thành phố đã nỗ lực phấn đấu vươn lên giành nhiều thành tích trên các lĩnh vực, tổ chức thành công đại hội đảng bộ cơ sở và Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XVIII.

Về phát triển kinh tế, với quyết tâm lập thành tích chào mừng đại hội Đảng các cấp, ngay từ đầu năm các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế đã nỗ lực vươn lên, chủ động triển khai thực hiện các giải pháp phát triển kinh tế do Ban Thường vụ Thành uỷ đề ra, như: chủ động tìm kiếm thị trường, thực hiện đa dạng hoá sản phẩm, tăng cường liên doanh, liên kết, đầu tư công nghệ mới, hiện đại, tổ chức hợp lí hoá bộ máy của doanh nghiệp, đơn vị sản xuất, kinh doanh, động viên, cổ vũ sự năng động, sáng tạo của người lao động, tạo phong trào thi đua sôi nổi trong sản xuất, kinh doanh, đồng thời phát triển thêm 205 doanh nghiệp mới, cấp mới đăng kí kinh doanh cho 1.237 hộ, nâng tổng số hộ đăng kí kinh doanh lên 6.798 hộ.

Với những giải pháp đồng bộ đó, kinh tế của Thành phố tiếp tục tăng trưởng cao, tổng giá trị tăng thêm 1.597 tỉ đồng, GDP đạt 16,1%, đạt kế hoạch đề ra (tăng trên 16%); mức tăng trưởng kinh tế của Thành phố trung bình 5 năm (2001-2005) là 15,3%, cao hơn mức tăng bình quân của tỉnh là 9,1% và của cả nước là 7,5%

 Ngày 14-11-2008, Kì họp thứ tư, Quốc hội khoá XII ra  Nghị quyết số 25/2008/QH12 về việc kéo dài nhiệm kỳ hoạt động 2004 – 2009 của Hội đồng nhân các cấp đến 2011

GDP bình quân đầu người đạt 1.100 USD, vượt kế hoạch đề ra, tăng 2,5 lần so với năm 2000 và gấp 3,3 lần so với bình quân chung của cả tỉnh. Tỉ trọng giá trị công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp trong GDP là 50,9% - 42,4% - 6,7%. Tổng mức bán lẻ lĩnh vực dịch vụ, thương mại đạt 1241 tỉ đồng, bằng 103,8% kế hoạch, tăng 15,9% so với năm trước; giá trị sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh đạt 601,2 tỉ đồng, bằng 120,2% kế hoạch, tăng 25% so với năm trước; giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 162 tỉ đồng, bằng 101,2% kế hoạch, tăng 4,8% so với năm trước; giá trị xuất khẩu đạt 32 triệu USD; tổng thu ngân sách đạt hơn 203 tỉ đồng, bằng 103% kế hoạch tỉnh giao, tăng 39% so với năm trước, nhưng mới đạt 96% dự toán của Thành phố; tổng chi ngân sách đạt 151,9 tỉ đồng, bằng 109 % kế hoạch đề ra.

Trong quy hoạch, xây dựng và quản lý đô thị, năm 2005, Thành phố bước đầu triển khai quy hoạch điều chỉnh mở rộng không gian phát triển đô thị, hoàn thành một số quy hoạch chi tiết. Các công trình xây dựng trọng điểm chào mừng Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI được hoàn thành đúng tiến độ. Công tác vệ sinh môi trường được tăng cường, bộ mặt đô thị ngày càng khang trang hơn. Tiếp tục quan tâm công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tổng số giấy chứng nhận đã cấp là 30.481 giấy, đạt 73%.

Thành phố tiếp tục dẫn đầu tỉnh về chất lượng giáo dục. Trong năm, có thêm 6 trường thuộc các cấp học đạt chuẩn quốc gia, nâng tổng số trường đạt chuẩn quốc gia lên 21/66 trường. Thành lập mới 6 trung tâm học tập cộng đồng,  đã có 100% số phường, xã có trung tâm học tập cộng đồng. Công tác khuyến học tiếp tục được các cấp, các ngành và nhân dân nhiệt tình ủng hộ. Toàn Thành phố có gần 12 nghìn học sinh có thành tích được nhận các phần quà động viên, trong đó có 500 học sinh nghèo vượt khó, với tổng giá trị 500 triệu đồng.

Các hoạt động văn hóa tập trung vào việc tuyên truyền các ngày lễ lớn và Đại hội Đảng các cấp. Trong năm có thêm 20 phố, làng văn hóa, cơ quan văn minh, 134 đơn vị đạt danh hiệu văn hóa cấp Thành phố và cấp Tỉnh. Hoạt động thể dục thể thao phát triển, tổ chức thành công Đại hội thể dục thể thao Thành phố.

Công tác y tế được bảo đảm, các cơ sở khám chữa bệnh thực hiện tốt việc khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, không để xảy ra dịch bệnh trên địa bàn. Hoạt động tuyên truyền về dân số, kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc bà mẹ và trẻ em đạt hiệu quả cao. Tỉ lệ phát triển dân số tự nhiên đạt 0,7%, tỉ lệ người sinh con thứ ba giảm  1,5%, tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng giảm 1,2% so với năm trước.

Các vấn đề xã hội được quan tâm, như: giải quyết việc làm cho 9.000 lao động, tạo điều kiện cho 123 lao động ra nước ngoài làm việc. Công tác xoá đói giảm nghèo được triển khai tích cực hơn, tỉ lệ hộ nghèo còn 8,91%, giảm 1,36% so với năm trước. Đó là những thành quả thiết thực chào mừng Đại hội Đảng các cấp và Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XVIII.

Những chủ trương, định hướng lớn nhằm phát huy tiềm năng, thu hút nguồn lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá

Quá trình tiến hành đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân.

Nhằm chuẩn bị tốt công tác nhân sự đại hội Đảng các cấp, ngày 13-1-2005, Thường vụ Tỉnh ủy ra Kế hoạch số 37-KH/TU về kiểm điểm tự phê bình và phê bình đối với cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ lãnh đạo, quản lý năm 2004. Tiếp đó, ngày 19-5-2005, Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Kế hoạch số 41-KH/TU về nhận xét đánh giá cấp ủy viên đương nhiệm phục vụ chuẩn bị nhân sự cấp ủy.

Ban Thường vụ Tỉnh ủy chọn Đảng bộ Thành phố là đơn vị đại hội điểm của Tỉnh. Đây là vinh dự đồng thời cũng là trách nhiệm của Đảng bộ và nhân dân Thành phố trong quá trình tổ chức đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X.

Thực hiện Chỉ thị 46 của Bộ Chính trị và các kế hoạch của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, trong quý I năm 2005, Ban Thường vụ Thành ủy đã hoàn chỉnh kế hoạch chỉ đạo đại hội Đảng bộ, chi bộ nhiệm kỳ 2005-2010, coi đây là nhiệm vụ hàng đầu trong chương trình công các năm 2005.

Trong quá trình tiến tới đại hội Đảng bộ, chi bộ cơ sở, các đơn vị đã tập trung sơ kết, tổng kết một số chỉ thị, nghị quyết về những chủ trương lớn của Đảng; tổ chức tuyên truyền về những thành tựu đạt được, đồng thời phát động các phong trào thi đua yêu nước trong toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Sau khi tổ chức đại hội điểm tại 4 đơn vị trong tháng 6 - 2005, Thường vụ Thành ủy tổ chức rút kinh nghiệm đề chỉ đạo đại hội trên diện rộng. Trong tháng 7 và tháng 8 năm 2005, các tổ chức cơ sở Đảng trực thuộc đã tổ chức thành công đại hội ở cấp mình.

Từ ngày 5 đến ngày 9 - 9 - 2005, Đại hội Đảng bộ Thành phố khóa XVIII, nhiệm kỳ 2005-2010 được tổ chức trọng thể tại Hội trường Thành ủy. Đây là đại hội Đảng bộ cấp Thành phố, huyện thị xã đầu tiên của tỉnh Thanh Hóa.

Dự Đại hội có 250 đại biểu, đại diện cho hơn 11.000 đảng viên của 103 tổ chức cơ sở Đảng trong Đảng bộ. Đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ tới dự và trực tiếp chỉ đạo Đại hội.

Phát biểu khai mạc Đại hội, đồng chí Hoàng Văn Hoằng, Bí thư Thành uỷ khẳng định: qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XVII, Đảng bộ và nhân dân Thành phố đã giành được những thành tựu to lớn có ý nghĩa rất quan trọng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh- quốc phòng. Đồng chí nhấn mạnh chủ đề Đại hội Đảng bộ là: Đại hội của trí tuệ, dân chủ, đoàn kết và đổi mới.

Đại hội nghe và thảo luận Báo cáo chính trị, Báo cáo kiểm điểm của Ban Chấp hành Đảng bộ khoá XVII, Báo cáo kết quả 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) và cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Báo cáo tổng hợp ý kiến của Đảng bộ Thành phố tham gia vào các dự thảo văn kiện của Trung ương trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X và Báo cáo chính trị của Tỉnh uỷ trình Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI.

Báo cáo chính trị khẳng định: Nhiệm kỳ 2001-2005, Đảng bộ và nhân dân Thành phố đã đạt được những thành tích quan trọng, vượt nhiều mục tiêu nhiệm vụ đề ra.

Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng tỉ trọng công nghiệp - dịch vụ, giảm tỉ trọng nông nghiệp. Doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh tăng nhanh. Dịch vụ - thương mại phát triển và đang phát huy thế mạnh của đô thị, khai thác có hiệu quả quỹ đất và các nguồn lực trong xã hội cho đầu tư phát triển; GDP bình quân đầu người tăng và gấp 2,5 lần so với bình quân chung của cả Tỉnh.

Văn hoá xã hội có nhiều chuyển biến tiến bộ, trình độ dân trí, nếp sống văn minh đô thị từng bước được nâng lên, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày một nâng cao, an  ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. 

       

Với những kết quả đạt được, Thành phố Thanh Hoá vinh dự được Chủ tịch Nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Ba; Thủ tướng Chính phủ quyết định công nhận Thành phố Thanh Hoá là đô thị loại II.

Bên cạnh những thành tựu đạt được, Đại hội chỉ ra những hạn chế, yếu kém, đồng thời nêu rõ những nguyên nhân chủ quan và khách quan của những hạn chế, yếu kém trong hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ.

Đại hội đề ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ của nhiệm kỳ 2005-2010. Về phương hướng chung, đó là: Khai thác có hiệu quả tiềm năng thế mạnh của đô thị tỉnh lỵ, tạo sức bật mới để tăng tốc phát triển nhanh và bền vững; đẩy mạnh thu hút đầu tư, xác định rõ các chương trình và các công trình trọng điểm để tập trung đầu tư có hiệu quả; chăm lo phát triển văn hoá xã hội, xây dựng ý thức văn minh đô thị làm nền tảng tinh thần cho phát triển toàn diện, giữ vững kỉ cương, làm tốt công tác cán bộ, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; mở rộng dân chủ, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, phấn đấu trở thành đô thi loại I vào năm 2015.

Về kinh tế, GDP trên địa bàn tăng bình quân từ 20% trở lên. Tổng giá trị gia tăng năm 2010 gấp hơn 2 lần so với năm 2005; GDP bình quân đầu người đến năm 2010 đạt 2.200 USD. Cơ cấu kinh tế trong GDP năm 2010: dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp có tỉ trọng 50% - 45,6% - 4,4%

Tốc độ tăng thu ngân sách hàng năm 20% trở lên. Tổng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn trong năm đạt 12.500 tỉ đồng. Giá trị xuất khẩu đến năm 2010 đạt 80-100 triệu USD.

Về văn hóa-xã hội, tỉ lệ tăng dân số tự nhiên dưới 0,7%. Đến năm 2010 tạo việc làm mới cho 50000-55000 lao động. Tỉ lệ lao động được đào tạo đến năm 2010 đạt 60%. Giảm tỉ lệ hộ nghèo mỗi năm từ 1,5- 2%; tỉ lệ trẻ suy dinh dưỡng xuống dưới 8%; tỉ lệ thất nghiệp giảm xuống 2%. Số phố, làng được công nhận danh hiệu đơn vị văn hoá cấp Thành phố đạt 80%.

Về xây dựng Đảng, hàng năm số tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh đạt 80%.

Đại hội đề ra các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện thắng lợi những mục tiêu trên.

Phát biểu tại Đại hội, đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ khẳng định những thành tựu của Đảng bộ Thành phố trong nhiệm kỳ 2001-2005, đồng thời nêu ra những nhiệm vụ nhằm đẩy nhanh tốc độ phát triển Thành phố trong những năm tiếp theo: Là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của Tỉnh, một địa bàn quan trọng và nhạy cảm về chính trị- xã hội, Thành phố có khả năng vừa tạo ra năng lực nội sinh to lớn, vừa thu hút nguồn lực và tụ hội nhân tài từ nhiều nơi. Vì vậy, Thành phố phải phát triển nhanh, mạnh, vững chắc, phấn đấu đi trước và về đích trước trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá, phấn đấu trở thành đô thị loại I vào năm 2015.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố khoá XVIII, nhiệm kỳ 2005-2010 gồm 39 đồng chí. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố khoá XVIII bầu Ban Thường vụ gồm 11 đồng chí; bầu Bí thư và các Phó Bí thư. Đồng chí Hoàng Văn Hoằng được bầu lại làm Bí thư; đồng chí Nguyễn Văn Ngọc làm Phó Bí thư thường trực và đồng chí Nguyễn Ngọc Hồi làm Phó Bí thư (Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố).

Đại hội bầu Đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XV gồm 21 đại biểu chính thức.

Đại hội kêu gọi toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân Thành phố phát huy truyền thống đoàn kết, kỷ cương, năng động, sáng tạo và vị thế của đô thị tỉnh lỵ, quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố khoá XVIII, nhiệm kỳ 2005-2010, xây dựng Thành phố ngày càng giàu mạnh, hiện đại, văn minh.

  

II. ĐẨY NHANH TỐC ĐỘ  PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI

Xác định rõ phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu của Thành phố sau 15 năm lãnh đạo thực hiện đường lối đổi mới của Đảng

Đầu thế kỉ XXI, tình hình quốc tế, trong nước và Tỉnh Thanh Hóa có nhiều thời cơ thuận lợi. Tỉnh Thanh Hóa đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả các mặt về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, xây dựng Đảng. Tỉnh có nhiều chủ trương đúng đắn trong việc phát triển kinh tế- xã hội, đặc biệt là chủ trương tập trung phát triển các vùng kinh tế trọng điểm ở các đô thị, trung tâm công nghiệp.

Sau 15 năm thực hiện công cuộc đổi mới, tiếp tục phát huy những thế mạnh về vị trí địa lý, tài nguyên đất đai, sức lao động và tiềm năng về vốn, khoa học công nghệ, thị trường để phát triển kinh tế-xã hội với tốc độ nhanh hơn, Thành phố Thanh Hóa đã có bước phát triển toàn diện và vững chắc trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa- xã hội, quốc phòng- an ninh, đời sống nhân dân không ngừng được nâng lên, cơ sở hạ tầng đô thị được đầu tư xây dựng, bộ mặt đô thị ngày càng khang trang.

Thực hiện Chỉ thị số 54-CT/TW, ngày 22-5- 2000 của Bộ Chính trị về việc tiến hành đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, những tháng cuối năm 2000, các cơ quan, đơn vị, cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân Thành phố Thanh Hóa đã hăng hái thi đua lao động, sản xuất lập nhiều thành tích suất sắc chào mừng đại hội đảng các cấp cấp, tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX.

Sau khi hoàn thành Đại hội Đảng bộ, chi bộ cơ sở, từ ngày 11 đến ngày 13 tháng 12 năm 2000, Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2001-2005, được tổ chức trọng thể. Dự đại hội có 180 đại biểu, thay mặt cho hơn mười ngàn đảng viên sinh hoạt tại 103 đảng bộ, chi bộ cơ sở. Đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ Thanh Hóa tới dự và chỉ đạo Đại hội.

Đánh giá những kết quả đạt được trong 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XVI, Đại hội khẳng định Đảng bộ và nhân dân Thành phố đạt được những thành tựu quan trọng: Giữ vững sự ổn định chính trị trên địa bàn, công cuộc đổi mới được đẩy mạnh, kinh tế tiếp tục phát triển và có bước tăng trưởng khá. Sức hút của đô thị tỉnh lỵ đã tăng lên. Cơ sở hạ tầng kĩ thuật đô thị được tập trung đầu tư và có bước phát triển vượt bậc. Các lĩnh vực văn hóa- xã hội có tiến bộ và ngày càng được xã hội hóa, trình độ dân trí nâng lên, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Trật tự an toàn xã hội cơ bản bảo đảm, vai trò của hệ thống chính trị được củng cố và phát huy tốt hơn. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng được phát huy.

Đại hội chỉ ra những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân của những khuyết điểm, yếu kém, trên cơ sở đó rút ra một số bài học kinh nghiệm trong quá trình lãnh đạo của Đảng bộ Thành phố:

Một là, quan tâm làm tốt công tác tư tưởng, đặc biệt phải ổn định tư tưởng nội bộ. Chú trọng thông tin có định hướng đến cán bộ, đảng viên và nhân dân để nâng cao nhận thức, tạo sự thống nhất tư tưởng và hành động. Đồng thời quan tâm thực hiện dân chủ nội bộ, phát hiện và xử lí kịp thời những vấn đề nảy sinh. Xây dựng sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng, trong lãnh đạo ngày càng cao, giữ vững ổn định chính trị.

Hai là, phải xác định đúng vai trò, vị trí của một đô thị trung tâm đầu não của tỉnh. Thực sự đổi mới phương thức lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của cấp ủy, chính quyền các cấp. Nhận thức đúng đắn, đầy đủ chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào tình hình thực tế của Thành phố. Quá trình tổ chức chỉ đạo thực hiện phải đồng bộ và kiên quyết; bám sát từng mục tiêu và kiên trì lãnh đạo thực hiện. Có sự phân công, phân nhiệm rõ ràng đối với tập thể và cá nhân. Thường xuyên kiểm tra, đôn đốc và đánh giá, động viên cán bộ, đảng viên kịp thời.

Ba là, luôn coi trọng công tác cán bộ, xác định cán bộ là khâu trọng yếu nhất. Quan tâm đồng bộ công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và xem xét, đánh giá, sử dụng cán bộ. Thực hiện tốt việc luân chuyển, tiêu chuẩn hóa, trẻ hóa cán bộ và chính sách cán bộ, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, kiên quyết thay thế những cán bộ năng lực yếu kém, thiếu trách nhiệm. Phải thực sự xuất phát từ đòi hỏi của công việc để bố trí cán bộ, vì sự nghiệp chung, vì sự phát triển của địa phương, đơn vị và phải thực sự khách quan thì mới lựa chọn, xây dựng được đội ngũ cán bộ tốt.

Bốn là, quan tâm chăm lo bảo đảm lợi ích chính đáng và hợp pháp của quần chúng nhân dân. Động viên và phát huy truyền thống cách mạng của địa phương, tổ chức tập hợp và phát động quần chúng tham gia các phong trào, đồng thời có các cơ chế, chính sách khuyến khích để khai thác được tiềm năng to lớn trong nhân dân, nhằm thực hiện thành công chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Năm là, tranh thủ sự lãnh đạo, đồng tình ủng hộ, giúp đỡ của cấp trên, của các ngành, của bạn bè đối với Thành phố, coi đó là cơ sở quan trọng để thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế -xã hội của địa phương.

Trên cơ sở phân tích sâu sắc ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm, hướng tới kỷ niệm 200 năm đô thị tỉnh lỵ, 10 năm thành lập Thành phố, Đại hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu trong nhiệm kỳ 2001-2005: “Phát huy cao độ truyền thống, những tiềm năng về vốn, lao động, trí tuệ và khoa học kĩ thuật; tiếp tục đổi mới đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tập trung đầu tư phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng, tăng cường quản lý đô thị, tiến hành có trọng tâm, trọng điểm và có hiệu quả. Từng bước giải quyết tốt các vấn đề bức xúc về văn hóa- xã hội, trọng tâm là xây dựng nền văn hóa mới, giải quyết việc làm và tệ nạn xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Củng cố quốc phòng-an ninh, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo trật tự- an toàn xã hội. Tiếp tục thực hiện xây dựng chỉnh đốn Đảng, đẩy mạnh và thực hiện có hiệu quả quy chế dân chủ ở cơ sở, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Phấn đấu năm 2001, Đảng bộ Thành phố đạt và giữ danh hiệu “Đảng bộ trong sạch, vững mạnh”; đến năm 2005, Thành phố được nâng cấp lên đô thị loại 2”.

Đại hội xác định rõ những mục tiêu cụ thể trên các lĩnh vực.

Về kinh tế: Phấn đấu tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân hàng năm đạt 15- 16%; GDP bình quân đầu người đến năm 2005 đạt 1000 USD trở lên. Cơ cấu kinh tế: Công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp có tỉ trọng: 38% - 57% - 5%; tốc độ phát triển bình quân hàng năm của các ngành kinh tế chủ yếu: công nghiệp: 14-15%, dịch vụ: 12-13%; nông nghiệp: 5-6%. Tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn đạt 400 tỉ đồng/năm; hoàn thành một số dự án lớn như: Dự án cấp nước Thanh Hóa - Sầm Sơn; cải tạo mạng lưới điện, cải tạo hệ thống thoát nước bằng vốn ODA; bãi chứa và xử lí rác thải, dự án cải tạo và nâng cấp kênh Vinh, kênh Nhà Lê; cơ sở hạ tầng khu văn hóa - du lịch Hàm Rồng và xây dựng một số khu chung cư, khu dân cư mới.

Về văn hóa- xã hội: Duy trì phổ cập tiểu học đúng độ tuổi, sớm hoàn thành phổ cập trung học cơ sở, từng bước tiến hành phổ cập trung học phổ thôngTỉ lệ lao động được đào tạo đến năm 2005 đạt 45% trở lênTiếp tục hạ tỉ lệ phát triển dân số tự nhiên dưới mức 0,8%. Tốc độ đô thị hóa bình quân hằng năm đạt 5% trở lên. Giảm tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng xuống dưới 15%. Đến năm 2005, giảm tỉ lệ hộ nghèo còn dưới 2%, lao động thất nghiệp còn dưới 4%. Đến năm 2005, tỉ lệ gia đình văn hóa đạt 80% trở lên; 70% trở lên khu phố, làng khai trương xây dựng đơn vị văn hóa; phấn đấu 60-70% số cơ quan văn hóa

Về xây dựng Đảng: Trung bình hằng năm 80% trở lên số đảng bộ, chi bộ cơ sở đạt danh hiệu trong sạch vững mạnh. Xây dựng hệ thống chính quyền và các đoàn thể vững mạnh.

Đại hội bầu Ban Chấp hành khóa XVII, nhiệm kỳ 2001 - 2005, gồm 33 đồng chí. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố bầu Ban Thường vụ gồm 11 đồng chí. Đồng chí Nguyễn Đức Thắng được bầu làm Bí thư Thành ủy; các đồng chí Nguyễn Văn Ngọc, Bùi Tường Hỷ được bầu làm Phó Bí thư. Đại hội bầu đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XV gồm 22 đại biểu chính thức và 2 đại biểu dự khuyết.

Đại hội kêu gọi toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân Thành phố phát huy truyền thống 55 xây dựng và trưởng thành của Đảng bộ, kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XVII.

Ngay sau Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XVII, từ ngày 2 đến ngày 5- 1-2001, đã diễn ra Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XV. Phát huy những thành tựu quan trọng bước đầu đạt được, trên cơ sở đánh giá những ưu điểm và hạn chế, khó khăn, căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của địa phương sau 15 năm đổi mới, Đại hội đề ra phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu trong 5 năm 2001-2005: “Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, tăng tốc độ phát triển, phấn đấu đạt và vượt chỉ tiêu trên các lĩnh vực, phát huy nội lực, khai thác có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển, đặc biệt là nguồn nhân lực, ưu tiên đầu tư phát triển các ngành, các lĩnh vực có nhiều tiềm năng, lợi thế của tỉnh, đáp ứng yêu cầu thị trường; tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp, hiện đại hóa, đảm bảo tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao và bền vững; nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh, tích cực chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với giải quyết tốt những vấn đề xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, từng bước thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường củng cố quốc phòng-an ninh, giữ vững ổn định chính trị. Xây dựng Đảng, chính quyền Mặt trận và các đoàn thể trong sạch, vững mạnh”.

Tháng 4 năm 2001, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng chủ trương phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, vì mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh; khẳng định phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đại hội đề ra chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001 – 2010) với mục tiêu tổng quát đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Việc tổ chức thành công Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng và Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ XV, Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XVII với những định hướng lớn là cơ sở, nền tảng quan trọng để Đảng bộ và nhân dân Thành phố Thanh Hóa quyết tâm xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, văn minh.

Phát huy các nguồn lực, đẩy nhanh tốc độ xây dựng Thành phố theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Để đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống, Ban Thường vụ Thành uỷ xác định Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX của Đảng bộ gồm 10 chương trình chủ yếu:

Chương trình đẩy mạnh thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Chương trình đẩy mạnh phát triển công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp 

Chương trình đẩy mạnh tăng thu ngân sách và thực hành tiết kiệm chi.

Chương trình phát triển và quản lý đô thị.

Chương trình khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh dịch vụ và giải quyết việc làm.

Chương trình phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo, nâng cao dân trí, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

Chương trình phát triển văn hoá - xã hội.

Chương trình tăng cường công tác quốc phòng - an ninh và đẩy mạnh phòng chống tội phạm và các tệ nạn xã hội.

Chương trình tiếp tục xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Chương trình chỉ đạo điểm, kiểm tra, thanh tra, sơ kết, tổng kết.

Ngay từ đầu năm 2001, Ban Thường vụ Thành uỷ đã cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XVII thành các nhiệm vụ trọng tâm của thành phố: Tập trung đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá. Tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng, đồng thời giải quyết tốt vấn đề xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Giữ vững an ninh chính trị- trật tự an toàn xã hội. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, đẩy lùi và ngăn chặn có hiệu quả tệ nạn xã hội và tội phạm. Tiếp tục thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) và cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh.

Để đạt được các nhiệm vụ trọng tâm đó, Ban Thường vụ Thành uỷ đề ra các nhiệm vụ cụ thể đối với tất cả các lĩnh vực phát triển kinh tế -xã hội, quốc phòng, an ninh, xây dựng và quản lý đô thị, xây dựng Đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân dân.

Về kinh tế: Đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm, tích cực, chủ động hội nhập thị trường khu vực và quốc tế; đẩy nhanh tiến độ cổ phần hoá các doanh nghiệp và thực hiện bán, khoán, cho thuê, giải thể doanh nghiệp theo quy định của Nhà nước. Tiếp tục phát triển doanh nghiệp ngoài quốc doanh; khôi phục và phát huy các ngành nghề truyền thống; đẩy mạnh công nghiệp chế biến nông, lâm, hải sản. Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, phấn đấu đưa giống lúa mới và lúa lai đạt 50% diện tích gieo cấy.

Về xây dựng và quản lý đô thị: Tăng cường công tác quản lý xây dựng đô thị; hoàn chỉnh quy hoạch chi tiết các khu vực trong thành phố và quy hoạch một số khu đô thị mới; nâng cấp một số tuyến đường ở các khu dân cư bị xuống cấp, xây dựng đồng bộ hệ thống thoát nước, vỉa hè, cây xanh các tuyến nội thành; vận động nhân dân tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng kĩ thuật theo hướng dẫn của Thành phố; hoàn thành dự án xây dựng Khu tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh và các khu di tích khác; đẩy mạnh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nhân dân, giải quyết dứt điểm tình trạng lấn chiếm lòng, lề đường, vỉa hè,…Đẩy mạnh việc thực hiện xây dựng thành phố xanh, sạch, đẹp.

Về văn hoá-xã hội: Tiếp tục thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở; từng bước chuyển một số trường trung học cơ sở sang loại hình ngoài công lập; nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện và mũi nhọn, giáo dục văn hoá với dạy nghề và kiến thức về phòng chống ma tuý và an toàn giao thông; chấm dứt việc dạy thêm và học thêm ngoài nhà trường. Đẩy mạnh phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá. Mở rộng các hoạt động thể dục thể thao, đa dạng hoá các loại hình hoạt động, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia. Tăng cường công tác chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân, giảm số người sinh con thứ ba trở lên, giảm tỉ lệ tăng dân số tự nhiên mức dưới 0,8%, hạ tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng xuống 18%; thực hiện tốt chính sách xã hội về giải quyết việc làm và xoá đói giảm nghèo, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.

Về xây dựng Đảng: Thực hiện tốt việc tuyên truyền về thành công của đại hội Đảng bộ các cấp và Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX. Các cấp, các ngành, các đơn vị cụ thể hoá việc thực hiện nghị quyết của Đảng bằng các chương trình hành động và công tác cụ thể; tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) và cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng; làm tốt công tác quy hoạch, bồi dưỡng, bố trí, sắp xếp đội ngũ cán bộ; đẩy mạnh thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.

Về xây dựng chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể: Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính theo mô hình “một cửa”, nâng cao hiệu quả quản lý của bộ máy Nhà nước; sắp xếp lại bộ máy tổ chức và bố trí cán bộ theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 7 (khoá VIII); nâng cao chất lượng hoạt động của Uỷ ban nhân dân, Hội đồng  nhân dân và các cơ quan chức năng, các đơn vị trực thuộc Thành phố.

Kiện toàn tổ chức Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân; đẩy mạnh các phong trào thi đua, đặc biệt là phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”.

Triển khai thực hiện các mục tiêu đề ra, ngay trong năm đầu tiên thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XVII, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV và Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Thành phố Thanh Hóa đã giành được nhiều kết quả quan trọng, hoàn thành vượt mức tất cả các chỉ tiêu đề ra. Kinh tế tiếp tục phát triển khá và tương đối toàn diện trong tất cả các ngành, các lĩnh vực.

Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tăng trưởng cao. Thành phố từng bước triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước.Các doanh nghiệp nhà nước sau khi được cổ phần hoá có bước phát triển tốt như Công ty cổ phần nước mắm Thanh Hương, Phân lân Hàm Rồng, Cơ khí giao thông,… Khu công nghiệp Lễ Môn đã thu hút được nhiều doanh nghiệp đăng kí đầu tư; dự án khu công nghiệp vừa và nhỏ ở Tây Bắc ga, đẩy mạnh xây dựng cơ sở hạ tầng. Công nghiệp ngoài quốc doanh xuất hiện nhiều mô hình sản xuất, kinh doanh có hiệu quả cao.

Trong nông nghiệp, các xã ngoại thành gieo cấy 5817 ha (trong đó có 198 ha lúa chất lượng cao, 966 ha lúa lai. Đây là diện tích lúa lai lớn nhất so với những năm trước đó), đạt 100% kế hoạch, năng suất đạt 46,3 tạ/ha, sản lượng lương thực đạt 21.917 tấn. Bên cạnh đó, nhân dân đã tích cực chuyển đổi, mở rộng diện tích trồng hoa, cây cảnh lên 58 ha, tăng 79% so với năm 2000. Tuy nhiên, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hoá còn chậm, đầu tư giống cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao chưa được chú trọng. Do đó, giá trị tạo ra trên đơn vị diện tích còn thấp, chưa có các mô hình làm ăn lớn. Trong chăn nuôi, tổng đàn trâu, bò gồm 2.806 con, giảm 6,1% so với năm 2000, đàn lợn 28.000 con, gia cầm 235.055 con tăng 8,4% so với năm 2000.

Các ngành dịch vụ tiếp tục tăng trưởng khá. Dịch vụ vận tải tăng cả về số lượng vận tải và phương tiện. Toàn ngành đã vận chuyển đạt 1.418 ngàn tấn hàng hoá, tăng 7,6% so với năm 2000, khối lượng luân chuyển hàng hoá đạt 107.500 ngàn tấn/km, tăng 7,5% so với năm 2000; khối lượng vận chuyển hành khách đạt 1650 ngàn lượt người, tăng 12% so với năm 2000, khối lượng luân chuyển hành khách đạt 110.000 ngàn lượt người/km, tăng 11% so với năm 2000. Dịch vụ thương mại phát triển, hàng hoá phong phú, đa dạng, giá cả ổn định, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân và phục vụ sản xuất. Thu chi ngân sách vượt kế hoạch tỉnh giao. Tổng thu đạt 42.778 triệu đồng, tăng 31% so với kế hoạch tỉnh giao và tăng 11% so với năm 2000. Kết quả đó đã bảo đảm được các khoản chi cho hoạt động thường xuyên của Thành phố, đồng thời giành một phần đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đô thị. Tổng chi đạt 46.543 triệu đồng, tăng 52% so với kế hoạch tỉnh giao và tăng 39% so với năm trước .

Trong công tác quản lý đô thị, đã tập trung lập quy hoạch và quản lý quy hoạch. Đến cuối năm 2001, Thành phố đã hoàn thành việc quy hoạch chi tiết Khu Trung tâm, Khu Nam trung tâm, xã Đông Hương, phường Đông Sơn, xã Quảng Thắng, phường Đông Vệ, Khu Đô thị mới Đông Bắc ga, Khu dân cư Mai Xuân Dương, Khu Văn hoá trung tâm Thành phố. Việc triển khai thi công các công trình xây dựng bảo đảm chất lượng và mỹ quan Thành phố. Nhiều tuyến phố được chỉnh trang, nhiều khu đô thị mới hiện đại được hình thành. Nhiều công trình được hoàn thành đúng tiến độ và đưa vào sử dụng có ý nghĩa xã hội sâu sắc, như: Khu văn hoá tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh, Công viên Hồ Thành khu vực I, Khu chứa và xử lý rác thải, đường Đội Cung, đường Minh Khai, Trường Trung học cơ sở Điện Biên và nhiều trường học, trạm y tế ở các phường, xã. Tiếp tục xây dựng công trình đại lộ Lê Lợi kéo dài, Hồ Thành khu vực III; các tuyến đường: Đào Duy Từ, Lê Phụng Hiểu, Phạm Bành, Chu Văn An, Cửa Tả. Tiến hành xây dựng các chợ đầu mối, như: Vườn Hoa, Đông Thọ, Nam Thành,…

Văn hoá, xã hội tiếp tục phát triển toàn diện. Trong giáo dục, đào tạo, chất lượng dạy và học được nâng lên ở tất cả các cấp học, ngành học. Toàn Thành phố có 10 trường Tiểu học đạt chuẩn quốc gia; hoàn thành phổ cập giáo dục Trung học cơ sở. Năm học 2000-2001, tỉ lệ học sinh tốt nghiệp Tiểu học đạt 99,6%, Trung học cơ sở đạt 99,35%; tỉ lệ các cháu 5 tuổi đến trường mẫu giáo và 6 tuổi vào lớp 1 đạt 99,5%; kết quả các đợt thi học sinh giỏi chuyên môn, thi vẽ, thi văn nghệ, thi thể dục thể thao,…đều dẫn đầu Tỉnh. Với những kết quả đó, Thành phố giữ vững danh hiệu đơn vị dẫn đầu toàn tỉnh về chất lượng giáo dục toàn diện và giáo dục mũi nhọn. Bên cạnh đó, giáo dục hướng nghiệp và dạy nghề được quan tâm hơn. Công tác đào tạo nghề cho người lao động được đẩy mạnh theo hướng xã hội hoá.

Các hoạt động văn hoá, thông tin diễn ra sôi nổi, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hoá của nhân dân. Trong các hoạt động đó, Thành phố đã kết hợp được với việc tuyên truyền các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Phong trào xây dựng phố văn hoá, làng văn hóa, cơ quan văn hoá tiếp tục được cán bộ và nhân dân tích cực tham gia. Trong năm 2001 có thêm 41 phố, làng, cơ quan văn hoá, nâng tổng số phố, làng và cơ quan văn hoá lên 139 đơn vị, trong đó có 17 phố, làng văn hoá cấp tỉnh và 6 phố, làng văn hoá cấp Thành phố.

Phong trào thể dục thể thao phát triển cả số lượng và chất lượng, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân. Đến cuối năm 2001, Thành phố có 32 câu lạc bộ, 62.000 người thường xuyên tập luyện thể dục thể thao; tổ chức thành công đại hội thể dục thể thao từ cấp phường, xã đến Thành phố.

Về Y tế, Thành phố thực hiện tốt công tác vệ sinh phòng dịch, nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh cho nhân dân; thực hiện tốt các chương trình tiêm chủng mở rộng, uống vitamin A cho trẻ dưới 5 tuổi và bà mẹ mang thai. Nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình, Thành phố tổ chức 5 lớp tập huấn cho 254 cán bộ chuyên trách dân số và cộng tác viên về kiến thức dân số kế hoạch hoá gia đình; triển khai 3 đợt tăng cường sức khoẻ sinh sản ở 8 phường, xã; khám cho 5.914 lượt người, thực hiện các biện pháp tránh thai cho 7.222 lượt người; giảm tỉ suất sinh 0,47% và tỉ lệ sinh con thứ 3 xuống 1,4%.

Về công tác quốc phòng- an ninh, để chủ động đối phó với mọi tình huống, Ban Thường vụ Thành uỷ đề ra phương hướng chung về công tác quốc phòng - an ninh trong năm 2001: Phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và toàn dân, gắn phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng- an ninh, tập trung xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, củng cố vững chắc khu vực phòng thủ Thành phố mà nền tảng là xây dựng cơ sở, xây dựng cụm tuyến vững mạnh an toàn làm chủ, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng lực lượng quân sự - công an Thành phố vững mạnh, chính quy, từng bước hiện đại, làm nòng cốt cho phong trào quần chúng tham gia thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quốc phòng-an ninh, chủ động đánh bại chiến lược “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của địch và các tình huống khác, giữ vững sự ổn định trên địa bàn, góp phần thúc đẩy kinh tế -xã hội của thành phố tiếp tục phát triển.

An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn được giữ vững, các tệ nạn xã hội và vụ việc về hình sự giảm hơn so với năm 2000. Chương trình phòng chống ma tuý đã thu hút được đông đảo nhân dân tham gia.

Công tác xây dựng chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng có nhiều chuyển biến tích cực. Ban Thường vụ Thành uỷ tập trung triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII và Nghị quyết 16/CP của Chính phủ về sắp xếp tổ chức, tinh giảm biên chế, điều chỉnh chức năng nhiệm vụ của mỗi cơ quan, đơn vị phù hợp với tình hình mới. Các cấp, các ngành của Thành phố nghiêm túc thực hiện việc tổ chức sơ kết 3 năm thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Trưởng phố, trưởng thôn được tham gia các lớp bồi dưỡng kiến thức về quản lý nhà nước.

Nhằm tăng cường công tác quản lý địa bàn dân cư trong tình hình mới, phường Phú Sơn được Chính phủ ra Quyết định chia tách thành 2 phường: phường Tân Sơn và phường Phú Sơn.

Với những thành tích đạt được trong năm 2001, Ban Thường vụ Thành uỷ xác định năm 2002 có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc tạo đà cho quá trình thực hiện nhiệm vụ những năm tiếp theo của nhiệm kỳ 2001-2005. Trên cơ sở đó, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế với tốc độ cao và bền vững, tạo bước đột phá trong phát triển công nghiệp, du lịch và nông nghiệp.

Thực hiện Nghị quyết của Ban Thường vụ Thành uỷ về phát triển sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh, chủ động phối hợp với các ngành chức năng của Tỉnh, lãnh đạo các phường, xã đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và nhân dân tập trung đầu tư, mở rộng sản xuất, kinh doanh. Phối hợp với Ban quản lý khu công nghiệp của Tỉnh thúc đẩy việc đầu tư cơ sở hạ tầng kĩ thuật khu công nghiệp Lễ Môn nhằm thu hút các dự án đầu tư, đồng thời xúc tiến quy hoạch các khu công nghiệp dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở khu vực Tây Bắc ga. Bên cạnh đó, tiếp tục đổi mới công tác quản lý đối với các công ty,  hợp tác xã, tổ hợp sản xuất. Tiếp tục sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khóa IX), thực hiện cổ phần hóa và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa hoạt động ổn định.

Về xây dựng và quản lý đô thị, đẩy nhanh tiến độ xây dựng quy hoạch chi tiết các khu vực trên địa bàn Thành phố; tập trung thi công hoàn thành các công trình Hồ Thành khu vực I; triển khai các công trình chuyển tiếp và lập dự án đầu tư các công trình mới như: Đại lộ Bắc- Nam, đại lộ Lê Lợi kéo dài, đường vành đai phía Tây, khu du lịch Hàm Rồng, khu du lịch Mật Sơn; nâng cấp cải tạo lòng đường, vỉa hè, mương thoát nước, trồng cây xanh theo quy hoạch nhằm hoàn chỉnh đồng bộ các tuyến đường nội thành; cải tạo đường giao thông nông thôn; vay vốn xây dựng kiên cố hoá trường học; đẩy nhanh tiếp độ thực hiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà cho nhân dân theo Nghị định 60/CP của Chính phủ; bàn giao lưới điện của Thành phố cho ngành điện quản lý theo quy định của Nhà nước.

Về văn hoá xã hội, tiếp tục nâng cao chất lượng dạy và học, gắn nhà trường với gia đình, gắn giáo dục văn hoá với đào tạo nghề; tăng cường quản lý việc dạy thêm và học thêm; tổ chức các hoạt động thông tin tuyên truyền về chủ trương đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và những chủ trương, kế hoạch của Thành phố về xây dựng Thành phố Thanh Hóa ngày càng khang trang, giàu đẹp; đẩy mạnh cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng nếp sống văn hoá ở mỗi phố, làng, cơ quan, đơn vị; thực hiện tốt công tác chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân, chủ động phòng chống dịch bệnh, kiểm tra, quản lý chặt chẽ vấn đề hành nghề y dược tư nhân, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm; duy trì hoạt động có hiệu quả công tác dân số kế hoạch hoá gia đình và chăm sóc trẻ em, giữ ổn định tỉ lệ phát triển dân số tự nhiên 0,7%, hạn chế các trường hợp sinh con thứ 3, giảm tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng xuống dưới 18%.

Về công tác chính quyền, đoàn thể, tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, đẩy mạnh thực hiện quy chế dân chủ, nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân, tiến hành sắp xếp bộ máy và tinh giảm biên chế theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (khoá VIII) và Nghị quyết 16/CP của Chính phủ.

Tháng 2 -2002, Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa IX bàn về các biện pháp đẩy mạnh phát triển kinh tế- xã hội. Hội nghị thông qua nhiều quyết định quan trọng, trong đó có Nghị quyết Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân. Nghị quyết khẳng định trong những năm đổi mới, kinh tế tư nhân hoạt động rộng khắp cả nước, đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế xã hội, huy động các nguồn lực xã hội vào sản xuất kinh doanh, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, cải thiện đời sống nhân dân, đóng góp ngày càng tăng vào ngân sách nhà nước, góp phần giữ ổn định xã hội. Nghị quyết chỉ rõ phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước bảo đảm quyền tự do kinh doanh theo đúng pháp luật, bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp của công dân, khuyến khích, hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi về định hướng, quản lý phát triển kinh tế tư nhân theo pháp luật và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế; bảo vệ lợi ích chính đáng của người lao động và người sử dụng lao động. Trên tinh thần đó, ngày 4-11-2002, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thanh Hóa ra Nghị quyết 03 về phát triển ngành nghề thủ công nghiệp. Nghị quyết xác định nhiệm vụ phát triển các ngành nghề thủ công từ năm 2002 đến năm 2005 và năm 2010 của tỉnh cần tập trung khôi phục và phát triển các ngành, nghề truyền thống có lợi thế; phấn đấu đến năm 2005, hình thành một số cụm công nghiệp cấp huyện và các cụm nghề cơ sở; phấn đấu nâng tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm là 15% trong thời kì 2002- 2010. 

Thực hiện những chủ trương trên, các cấp các ngành, các cơ quan đơn vị của Thành phố Thanh Hóa tập trung xây dựng các kế hoạch chi tiết nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu đề ra. Thành uỷ đã tổ chức các hội nghị với một số ngành của Tỉnh để phối hợp tổ chức thực hiện, nhằm giải quyết những khó khăn vướng mắc trong đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, đẩy nhanh tốc độ phát triển đô thị. Bên cạnh những chính sách phát triển kinh tế của Nhà nước và của Tỉnh, Thành phố bổ sung thêm những ưu đãi nhà đầu tư phù hợp với điều kiện của Thành phố nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển năng động hơn. Với những chủ trương và biện pháp đó, Đảng bộ và nhân dân Thành phố đã đạt được kết quả quan trọng trên tất cả các lĩnh vực.

Kinh tế tăng trưởng khá, năm 2002 giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn đạt 643,8 tỉ đồng, tăng 11,5% so với năm 2001, trong đó phần giá trị do Thành phố quản lý đạt 218,6 tỉ đồng, tăng 13% kế hoạch. Tổng giá trị thương mại, dịch vụ đạt 800 tỉ đồng, tăng 8,5% so với năm 2001, trong đó phần giá trị do Thành phố quản lý đạt 112,3 tỉ đồng, tăng 7% kế hoạch, tăng 15,% so với năm 2001. Phương tiện vận tải tăng 5,1%, chất lượng phục vụ được cải thiện, đáp ứng yêu cầu ngày một hơn nhu cầu về sản xuất, kinh doanh và đời sống của nhân dân. Trong nông nghiệp, tuy diện tích gieo trồng giảm, nhưng giá trị sản xuất tăng 1,8%, trong đó điện tích trồng lúa giảm 4% nhưng sản lượng tăng 2,85%; đàn trâu, bò 3.417 con, trong đó có 448 bò Lai sind, đàn lợn hơn 29.000 con, đàn gia cầm 271.750 con, tăng 0,6% so với năm 2001. Các dịch vụ trong sản xuất nông nghiệp phát triển, giá trị trên 1 ha đất canh tác đạt 32 triệu đồng. Thu ngân sách đạt 46,998 tỉ đồng, đạt kế hoạch đề ra, tăng 22,5% so với năm 2001.

Công tác quy hoạch, đầu tư xây dựng và quản lý đô thị có nhiều chuyển biến tích cực. Ủy ban nhân dân Thành phố đã ban hành Quyết định số 369 và Kế hoạch số 132 về việc xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Tiếp đó, Thành ủy có Kế hoạch 18 về huy động toàn thể nhân dân Thành phố tham gia chỉnh trang đô thị; phấn đấu đạt đô thị loại II vào năm 2004.

Trong năm 2002, Thành phố phê duyệt được 6 quy hoạch chi tiết, gồm: khu Trung tâm, khu Nam Trung tâm, các khu đô thị: Đông Hương, Đông Sơn,  Tây ga,  Quảng Thắng. Quy hoạch Bắc Cầu Hạc, Đông Vệ, đồng thời quy hoạch nhiều khu tái định cư cho các khu đô thị mới,… Tập trung đẩy nhanh tiến độ thực hiện các công trình, giải phóng mặt bằng các dự án trọng điểm: Đại lộ Bắc - Nam, Cầu vượt đường sắt, Trung tâm thương mại, Quảng trường Lê Lợi, Đại lộ Lê Lợi kéo dài và nhiều công trình nâng cấp đường giao thông, thoát nước, xây dựng các trường học kiên cố và các khu đô thị mới. Phong trào xây dựng bê tông hóa đường, ngõ ở các phường và đường nông thôn ở các xã được đẩy mạnh, điển hình là Đông Hải.

Tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn đạt 200 tỉ đồng, tăng 8% so với kế hoạch. Việc thực hiện công trình theo phương châm: Nhà nước và nhân dân cùng làm đã đạt kết quả khá. Từ giữa năm 2001 đến cuối năm 2002 có 50 công trình được thực hiện theo phương thức này, trong đó có 21 công trình đã hoàn thành với tống số tiền đầu tư là 3,157 tỉ đồng, nhân dân đóng góp 1,3 77 tỉ đồng, bằng 43,6%. Công tác quản lý đô thị theo quy hoạch từng bước vào nền nếp. Thành phố ban hành quy chế phân cấp quản lý đô thị và thành lập đội kiểm tra quy tắc đô thị.

Văn hoá - xã hội có nhiều chuyển biến tích cực. Tỉ lệ học sinh tốt nghiệp các cấp và lên lớp năm học 2001-2002 đạt hơn 99%. Năm học 2002-2003 triển khai thực hiện tốt việc thay sách giáo khoa lớp 1 và lớp 6. Thành phố đầu tư trên 10 tỷ đồng xây dựng mới 68 phòng học kiên cố. Thành phố tiếp tục là đơn vị dẫn đầu tỉnh về giáo dục toàn diện và giáo dục mũi nhọn. Năm 2001, thành lập Hội khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập trên địa bàn Thành phố.

Hoạt động văn hoá, thông tin có nhiều tiến bộ, phục vụ tốt việc thực hiện nhiệm vụ chính trị. Thành phố tiếp tục triển khai trùng tu tôn tạo các di tích lịch sử, quản lý lễ hội nhằm phục vụ đời sống tinh thần của nhân dân. Thành phố có thêm 42 phố, làng, cơ quan văn hoá, nâng tổng số đạt chuẩn văn hóa cấp tỉnh 176 đơn vị.

Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ nhân dân và thực hiện chính sách xã hội được quan tâm. Các cơ sở y tế được củng cố và tăng cường, chất lượng khám chữa bệnh ngày càng nâng cao. Thực hiện có hiệu quả các chương trình quốc gia về y tế, không để xảy ra dịch bệnh. Tỉ lệ tăng dân số tự nhiên đạt 0,68%, giảm 0,02% so với kế hoạch; số người sinh con thứ ba trở lên giảm so với năm trước; tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng còn 17%, giảm 1% so với kế hoạch, các gia đình chính sách, đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt được quan tâm giúp đỡ. 

Quốc phòng, an ninh được giữ vững, nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng vũ trang và xây dựng cơ sở an toàn, sẵn sàng chiến đấu gắn với thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; hoàn thành chỉ tiêu tuyển quân và huấn luyện quân sự. An ninh chính trị trên địa bàn được giữ vững. Chương trình quốc gia về phòng chống tội phạm theo Nghị quyết 09/CP của Chính phủ được nhân dân đồng tình hưởng ứng, góp phần bảo vệ trật tự trị an trên địa bàn.

Song song với tập trung lãnh đạo phát triển kinh tế-xã hội, công tác xây dựng Đảng được các cấp ủy thường xuyên quan tâm. Các đảng bộ, chi bộ thực hiện nghiêm chỉnh việc quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, Tỉnh ủy, Thành ủy và của cấp ủy trực thuộc tới toàn thể đảng viên. Qua đó ý thức chính trị của cán bộ, đảng viên được nâng cao. Bên cạnh đó, nhằm bổ sung kiến thức cho đội ngũ cán bộ làm công tác Đảng, Thành ủy đã tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ công tác Đảng, chính quyền và đoàn thể. Những biểu hiện tư tưởng lệch lạc của một số cán bộ, đảng viên và nhân dân được uốn nắn kịp thời. Cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng.

Công tác tổ chức, cán bộ có nhiều chuyển biến tích cực. Đảng bộ đã triển khai thực hiện quy định về phân công, phân cấp quản lý bộ máy và cán bộ, đánh giá bổ nhiệm cán bộ. Kịp thời ổn định bộ máy tổ chức và bố trí cán bộ đối với những đơn vị thành lập mới, chia tách. Việc quy hoạch cán bộ nhiệm kỳ 2005-2010 được chuẩn bị chu đáo. Các cấp ủy chủ động giới thiệu nguồn cho thử thách qua công việc và đưa đi đào tạo, bồi dưỡng.

Công tác phát triển Đảng được tiến hành thường xuyên. Năm 2002, Đảng bộ kết nạp 324 đảng viên mới, trong đó có 18 đảng viên đường phố. Đảng bộ có 106 tổ chức cơ sở Đảng trực thuộc. Qua phân loại, có 63 cơ sở đạt danh hiệu Trong sạch vững mạnh, 38 cơ sở đạt khá và 4 cơ sở yếu kém. Đảng bộ có 10.199/10.893 đảng viên tham gia đánh giá chất lượng, trong đó có 3.778 đồng chí đạt danh hiệu đảng viên xuất sắc, chiếm 37,04%, số đảng viên vi phạm tư cách 112, chiếm 1,1%. Trong năm có 47 đảng viên bị kỷ luật, trong đó khai trừ 8, cảnh cáo 23, khiển trách 16.

Về phát triển đảng khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh, đã thực hiện đúng quan điểm, chủ trương của Đảng và của Đảng bộ tỉnh. Chi bộ doanh nghiệp Tiến Nông là Chi bộ được thí điểm thành lập đầu tiên của Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa.

Hướng tới kỷ niệm 200 năm thành lập tỉnh lỵ và 10 năm thành lập Thành phố Thanh Hóa, đồng thời triển khai thực hiện Nghị quyết 03 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, ngày 16-11-2002, Ban Thường vụ Thành ủy ra Kế hoạch số 18/TU đề ra 4 nhiệm vụ trong tâm của Thành phố đến năm 2004:

Đẩy mạnh phát triển kinh tế với trong tâm là phát triển tiểu thủ công nghiệp và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp

Tập trung giải phóng mặt bằng xây dựng các công trình trọng điểm của theo đúng kế hoạch, huy động nội lực trong xây dựng cơ sở hạ tầng và chỉnh trang đô thị

Tập trung giải quyết có hiệu quả những vấn đề nổi cộm trong lĩnh vực văn hóa-xã hội

Tấn công truy quét các loại tội phạm và tệ nạn xã hội, đặc biệt là tệ nạn ma túy.

Đầu năm 2003, Đảng bộ Thành phố tiếp tục bổ sung kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội của thành phố theo hướng: Tập trung huy động nội lực, tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài, đẩy mạnh phát triển sản xuất – kinh doanh, tạo bước đột phá về phát triển kinh tế, từng bước phấn đấu để Thành phố thực sự là trung tâm ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ của tỉnh. Đẩy mạnh tiến độ giải phóng mặt bằng và xây dựng kết cấu hạ tầng kĩ thuật. Nâng cao chất lượng hoạt động văn hoá xã hội, kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng an ninh, tấn công truy quét tội phạm và tệ nạn xã hội, đặc biệt là tội phạm về ma tuý. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, xây dựng chính quyền trong sạch vững mạnh; đổi mới hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể quần chúng, xây dựng Thành phố ngày một văn minh, hiện đại, đến năm 2004 được công nhận là Thành phố loại 2. Để thực hiện được mục tiêu trên, Đảng bộ xác định tập trung thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp sau:

Các cơ sở kinh tế tập trung chuẩn bị cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đổi mới công nghệ, áp dụng các tiến bộ khoa học, kĩ thuật vào sản xuất, kinh doanh; các doanh nghiệp nhà nước chủ động xây dựng phương án chuyển đổi hình thức sở hữu phù hợp, bảo đảm sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu trong nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, đưa chăn nuôi trở thành ngành sản xuất chính, hình thành các vùng hoa, rau an toàn tập trung; phát triển các loại thuỷ sản có giá trị xuất khẩu; nhân rộng các mô hình làm ăn có hiệu quả và du nhập nghề mới, tạo việc làm cho người lao động, phấn đấu đạt giá trị 40-50 triệu đồng/1 ha.

Thành phố tạo cơ chế chính sách khuyến khích phát triển sản xuất, kinh doanh; xây dựng thêm một số khu công nghiệp vừa và nhỏ, lập quỹ khuyến khích phát triển sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, nông nghiệp và đào tạo nghề.

Xây dựng quản lý đô thị, tập trung hoàn thành các quy hoạch chi tiết còn lại, thực hiện việc quản lý đất đai, đô thị theo quy hoạch. Đẩy mạnh phong trào xây dựng cơ sở hạ tầng theo phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm, từng bước chỉnh trang đô thị; mỗi phường, xã có kế hoạch phát động nhân dân và các cơ quan đóng trên địa bàn xây dựng 1-2 phố kiểu mẫu.

Văn hoá-xã hội, tiếp tục giữ vững chất lượng giáo dục dẫn đầu tỉnh, phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở, từng bước phổ cập trung học phổ thông; tăng cường giáo dục đạo đức cho học sinh. Nâng cao chất lượng các cơ sở đào tạo nghề; đẩy mạnh việc xây dựng trường chuẩn quốc gia. Phát huy mạnh mẽ vai trò của Hội khuyến học, từng bước xây dựng một xã hội học tập.

Tập trung nâng cao chất lượng cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”; làm tốt công tác vệ sinh môi trường, nâng cao chất lượng phục vụ của các cơ sở y tế, không để xảy ra dịch bệnh, quản lý chặt chẽ hành nghề y, dược tư nhân. Tiếp tục đẩy mạnh truyền thông dân số, hạn chế đến mức thấp nhất tỉ lệ sinh con thứ ba trở lên, phòng chống HIV/AIDS; giải quyết việc làm cho 1000 - 1500 lao động, xúc tiến hoạt động xuất khẩu lao động.

Về quốc phòng - an ninh, thực hiện tốt công tác quốc phòng toàn dân và xây dựng thế trận an ninh nhân dân, thường xuyên nâng cao cảnh giác, sẵn sàng đập tan âm mưu chống phá, gây rối, bạo loạn của địch, không để xảy ra tình huống đột xuất, bất ngờ. Hoàn thành chỉ tiêu tuyển quân, bảo đảm số lượng và chất lượng, nâng cao chất lượng huấn luyện quân sự hàng năm. Tiếp tục thực hiện phòng chống tội phạm, đặc biệt là tội phạm ma tuý; tăng cường quản lý trật tự an toàn giao thông nhằm giảm thiểu tai nạn,..

Trong công tác xây dựng Đảng, tập trung tuyên truyền về đợt thi đua lập thành tích xuất sắc kỷ niệm 200 năm đô thị tỉnh lỵ và 10 năm thành lập Thành phố. Thực hiện nghiêm túc Điều lệ Đảng, đảng viên phải nói và làm việc theo nghị quyết của Đảng, gương mẫu trong các phong trào. Quan tâm thành lập chi bộ đảng ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng, thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong việc bàn bạc và quyết nghị những vấn đề quan trọng ở từng địa phương, cơ quan, đơn vị. Sơ kết việc thực hiện Quy định 76 của Bộ Chính trị về tăng cường mối quan hệ của đảng viên đang công tác ở cơ quan, đơn vị với cấp uỷ nơi cư trú.

Thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở, vận động nhân dân tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước. Tiếp tục củng cố, xây dựng chính quyền vững mạnh, thực hiện có hiệu quả cải cách thủ tục hành chính.

Tập trung triển khai thực hiện những chủ trương trên, đến cuối năm 2003, năm bản lề của nhiệm kỳ 2001-2005, đồng thời là năm tăng tốc phát triển hướng tới kỷ niệm 200 năm đô thị tỉnh lỵ và 10 năm thành lập Thành phố, Đảng bộ và nhân dân Thành phố đã giành được những kết quả quan trọng.

Thực hiện chủ trương của Đảng bộ, Ủy ban nhân dân Thành phố đã ban hành nhiều quy định khuyến khích phát triển sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, tạo mặt bằng cho các cơ sở kinh tế tổ chức sản xuất, kinh doanh. Nhờ đó, kinh tế Thành phố tiếp tục tăng trưởng, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, các chỉ tiêu kinh tế cơ bản đều vượt kế hoạch, nhiều mô hình sản xuất, kinh doanh có hiệu quả được nhân lên.

Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tiếp tục phát triển. Thành phố có 2005 cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, tạo việc làm cho hơn 8.000 lao động. Phần lớn các cơ sở sản xuất, kinh doanh được trang bị kĩ thuật, công nghệ hiện đại, thực hiện liên doanh, liên kết, mở rộng thị trường, quy mô sản xuất, đa dạng hoá sản phẩm, tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho người lao động. Tổng giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đạt 774 tỉ đồng, bằng 104% kế hoạch, tăng 22,9% so với năm trước, trong đó công nghiệp ngoài quốc doanh đạt 281 tỉ đồng, bằng 107,2% kế hoạch; các thành phần kinh tế khác đều tăng từ 17 đến 37%.

Thương mại phát triển ổn định, tổng giá trị hoạt động thương mại- dịch vụ trên địa bàn Thành phố đạt 904 tỉ đồng, tăng 13% so với năm trước. Thu ngân sách đạt 98,49 tỉ đồng, bằng 157% kế hoạch Tỉnh giao và bằng 143% so với mức phấn đấu của Thành phố. Tổng chi ngân sách đạt 83,879 tỉ đồng, trong đó ngoài việc bảo đảm chi thường xuyên cho bộ máy của Thành phố, còn chi 57 tỉ đồng cho xây dựng cơ bản.

Sản xuất nông nghiệp khởi sắc, cơ cấu cây trồng, vật nuôi được chuyển dịch đúng hướng, kinh tế trang trại phát triển, nhất là ở các xã vùng ven Thành phố. Tổng giá trị toàn ngành nông lâm nghiệp đạt hơn 143 tỉ đồng. Trong đó, đàn lợn có 34.752 con, đạt 115% kế hoạch, tăng 19% so với cùng kỳ; đàn bò có 3.863 con (có hơn 400 bò Lai Sind), đạt 113% kế hoạch, tăng 13%, có 20 trang trại nuôi bò tập trung. Tổng diện tích gieo trồng cả năm 5.497,3 ha, đạt 109,6% kế hoạch; năng suất lúa vụ chiêm xuân đạt 56,2 tạ/ha, vụ mùa đạt 41,2 tạ/ha.

Văn hóa- xã hội tiếp tục phát triển, Thành phố dẫn đầu Tỉnh về giáo dục toàn diện và giáo dục mũi nhọn. Trong năm học có 773 học sinh giỏi cấp tỉnh, 18/18 phường xã đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, 12 trường tiểu học đạt chuẩn quốc gia, 21/23 trường mầm non tổ chức học bán trú, số trẻ được ăn nghỉ tại trường đạt 70%.

Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” thấm sâu trong quần chúng nhân dân. Hoạt động văn hoá, thông tin bám sát các nhiệm vụ chính trị của Thành phố. Trong năm có thêm 50 phố, làng, cơ quan văn hoá, đạt 125% kế hoạch, nâng tổng số phố, làng văn hoá toàn Thành phố lên 212 đơn vị (gồm 180 phố, làng và 32 cơ quan), trong đó có 55 đơn vị.

Công tác y tế được chú trọng, chất lượng khám chữa bệnh được nâng lên. Công tác truyền thông dân số, bảo vệ bà mẹ và trẻ em được cấp uỷ, chính quyền và nhân dân quan tâm. Tỉ lệ tăng dân số tự nhiên đạt 0,6%, số người sinh con thứ 3 trở lên giảm còn 0,4%, trẻ em suy dinh dưỡng giảm còn 15%.

Chính sách xã hội được triển khai đồng bộ, đặc biệt là công tác xoá đói giảm nghèo. Thành phố hỗ trợ cho các hộ nghèo được vay 8,3 tỉ đồng, nâng tổng số vốn cho các hộ nghèo vay lên 23,4 tỉ đồng. Qua đó, số hộ nghèo giảm từ 5,91% còn 4,66%. Thành phố phát động Tháng hành động vì người nghèo, quyên góp được 206 triệu đồng, hỗ trợ xây dựng 8 nhà tình thương cho 8 hộ nghèo, trao tặng 4 nhà tình nghĩa cho 4 gia đình liệt sĩ, tiếp nhận 156 hài cốt liệt sĩ đưa về Nghĩa trang Liệt sĩ Hàm Rồng.

An ninh chính trị được giữ vững. Lực lượng vũ trang Thành phố bảo đảm yêu cầu sẵn sàng chiến đấu. Thành đội chỉ đạo chặt chẽ công tác huấn luyện quân sự đối với lực lượng dân quân, tự vệ và quân dự bị động viên, tổ chức diễn tập chiến đấu theo các cụm.

Công tác xây dựng Đảng có nhiều chuyển biến quan trọng. Thực hiện nhiệm vụ đề ra, các cấp ủy Đảng đã tập trung quán triệt triển khai thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, như: Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII, Nghị quyết Trung ương 7 khóa VIII, Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX, tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, tổng kết 5 năm thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở theo Chỉ thị 30 của Bộ Chính trị khóa VIII, tổ chức học tập tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh theo Chỉ thị số 23 của Ban Bí thư (khóa IX).... Việc quán triệt thực hiện chỉ thị, nghị quyết của Đảng gắn liền với nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của mỗi tổ chức đảng và đảng viên.

Đối với việc tổ chức hội nghị giữa nhiệm kỳ 2001-2005 và  Đại hội Đảng bộ, chi bộ cơ sở nhiệm kỳ 2003-2005, thực hiện Kế hoạch số 17- KH/TU ngày 9-4- 2003 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy và Hướng dẫn số 11-HD/TU ngày 11-4-2003 của Ban Tổ chức Tỉnh ủy về tiến hành đại hội tổ chức cơ sở đảng cơ quan đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp và lực lượng vũ trang, ngay trong ngày 11-4-2003, Ban Thường vụ Thành ủy ra Hướng dẫn số 09-HD/TU về đại hội Đảng bộ, chi bộ cơ sở nhiệm kỳ 2003-2005. Tiếp đó, ngày 14-5-2003, Ban Thường vụ Thành ủy ra Kế hoạch số 23-KH/TU về kiểm điểm thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng bộ các cấp giữa nhiệm kỳ 2001-2005.

Với sự hướng dẫn và chỉ đạo chặt chẽ của Thành uỷ, các tổ chức cơ sở Đảng  đã thực hiên tốt công tác chuẩn bị hội nghị giữa nhiệm kỳ và đại hội nhiệm kỳ 2003-2005. Báo cáo kiểm điểm giữa nhiệm kỳ của các đảng bộ khối phường, xã đã nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng những kết quả đạt được trong việc thực hiện các mục tiêu đề ra; chỉ rõ những thiếu sót, khuyết điểm cũng như các nguyên nhân của thiếu sót, khuyết điểm đó; đồng thời đề ra những giải pháp cụ thể, tiếp tục lãnh đạo thực hiện những mục tiêu còn lại đến hết nhiệm kỳ.

Cùng với việc tổ chức thành công hội nghị giữa nhiệm kỳ của các tổ chức cơ sở đảng khoá 2001-2005 và đại hội nhiệm kỳ 2003-2005, Ban Thường vụ Thành uỷ tập trung chỉ đạo các cấp uỷ đảng, các phòng, ban ngành của thành phố triển khai thực hiện Hướng dẫn số 17 của Ban Tổ chức trung ương và Hướng dẫn số 14 của Ban Tổ chức Tỉnh uỷ về công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kì công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Đến cuối năm 2003, tất cả phường, xã và phần lớn các cơ quan hành chính, sự nghiệp và doanh nghiệp đã xây dựng xong quy hoạch cán bộ nhiệm kỳ 2005-2010, trước mắt là tập trung nguồn nhân sự cho cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân vào năm 2004 và đại hội đảng bộ các cấp vào năm 2005.

Để đổi mới và nâng cao năng lực lãnh đạo cho đội ngũ cán bộ phường, xã, tạo nguồn cán bộ cho Thành phố trong các nhiệm kỳ tiếp theo, năm 2002, Ban Thường vụ Thành ủy đã xin chủ trương của ban Thường vụ Tỉnh ủy cho Thành phố thực hiện luân chuyển cán bộ trẻ được đào tạo chính quy, có triển vọng phát triển về phường, xã đảm nhận các chức danh chủ chốt. Chủ trương, kế hoạch đó đã được sự đồng ý của Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Thành ủy đã điều động, luân chuyển 9 cán bộ lãnh đạo một số phòng, ban của Thành phố về đảm nhận các chức danh chủ chốt Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân ở các phường, xã: Đông Thọ, Hàm Rồng, Đông Hương, Ngọc Trạo, Nam Ngạn, Lam Sơn, Điện Biên.

Nhờ làm tốt công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, các cấp ủy đã kịp thời phát hiện và ngăn ngừa dấu hiệu vi phạm, giải quyết những vấn đề nổi cộm trong trong quá trình thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII. Thành uỷ và cấp uỷ cơ sở xử lí kỷ luật 45 đảng viên vi phạm khuyết điểm, trong đó khiển trách 21, cảnh cáo 18, cách chức 1, khai trừ 5, đưa ra khỏi Đảng bằng các hình thức khác 13. Công tác phát triển đảng viên được chú ý hơn, đã kết nạp 264 đảng viên mới.

Những thành tựu trên tất cả các mặt kinh tế -xã hội, quốc phòng, an ninh, đặc biệt là kết quả hội nghị giữa nhiệm kỳ của các tổ chức cơ sở Đảng khoá 2001-2005 và Đại hội nhiệm kỳ 2003-2005 của các Đảng bộ, chi bộ có ý nghĩa quan trọng để Đảng bộ Thành phố tiếp tục thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ còn lại của kế hoạch 5 năm (2001-2005) .

XÂY DỰNG THÀNH PHỐ TRỞ THÀNH ĐÔ THỊ LOẠI II, HOÀN THÀNH KẾ HOẠCH 5 NĂM (2001-2005)

Tập trung lãnh đạo xây dựng và hoàn thiện các tiêu chí của đô thị loại II

Thành phố Thanh Hóa là trung tâm chính trị, hành chính, kinh tế - xã hội, văn hoá, khoa học của tỉnh, có vị trí quan trọng về an ninh, quốc phòng và có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của cả Tỉnh. Trong thời kỳ đổi mới, được sự quan tâm của Trung ương Đảng, Chính phủ, sự ưu tiên đầu tư của Tỉnh và sự nỗ lực của Đảng bộ, chính quyền và các tầng lớp nhân dân, là động lực để Thành phố đẩy nhanh tốc độ phát triển đô thị. Đặc biệt, kể từ khi có Nghị quyết 02-NQ/TU ngày 26 - 3 - 1997 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về xây dựng phát triển Thành phố đến năm 2010, Đảng bộ Thành phố đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng, phát triển Thành phố một cách toàn diện. Kinh tế tăng trưởng khá, bộ mặt đô thị có nhiều đổi mới, cơ sở hạ tầng kĩ thuật phục vụ sản xuất và đời sống được quan tâm đầu tư, đời sống vật chất tinh thần của nhân dân được cải thiện, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm. Tuy nhiên, tốc độ xây dựng phát triển đô thị còn chậm, việc bố trí đầu tư còn dàn trải, thiếu tập trung, chưa tạo được thay đổi căn bản bộ mặt đô thị, chưa có điểm nhấn của các khu trung tâm. Một số tiêu chí đô thị loại II chưa đạt được theo Nghị định số 72/2002/NĐ-CP ngày 5-10-2001 của Chính phủ.

Để đạt được các tiêu chí của đô thị loại II và được Chính phủ công nhận vào đầu năm 2004 nhân kỷ niệm 200 năm đô thị tỉnh lỵ, 10 năm thành lập Thành phố Thanh Hóa, ngày 14-2-2003, Ban Thường vụ Thành ủy đề xuất với Ban Thường vụ Tỉnh ủy một số cơ chế xây dựng, phát triển Thành phố Thanh Hóa. Thường vụ Thành ủy đề nghị Tỉnh ủy tập trung chỉ đạo đầu tư một số công trình trọng điểm và có cơ chế tạo điều kiện thuận lợi cho Thành phố thực hiện việc chỉnh trang, xây dựng một số dự án, công trình trọng điểm khu trung tâm, như: Quảng trường Lê Lợi, Công viên văn hóa trung tâm, Công viên Hồ Thành (khu vực I, giai đoạn 2), Quảng trường Lam Sơn, Đại lộ Lê Lợi kéo dài; nâng cấp một số tuyến đường nội thành (đường Lê Hoàn, Cao Thắng, Đinh Công Tráng, Hàng Đồng, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Minh Khai, Tống Duy Tân, Lê Hồng Phong, Phan Chu Trinh, Quốc lộ 1A đoạn qua Thành phố) theo hướng đồng bộ, hiện đại, bao gồm cả mặt đường, thoát nước, vỉa hè, cây xanh, điện chiếu sáng; hỗ trợ các phường, xã đầu tư hoàn chỉnh các tuyến đường trục ngoại thành theo phương thức Nhà nước và nhân dân cùng làm; tập trung hoàn thành một số khu tái định cư để phục vụ giải phóng mặt bằng cho các dự án).

Đẩy nhanh tiến độ thực hiện những công trình do Trung ương và Tỉnh đầu tư trên địa bàn Thành phố, như: đại lộ Bắc - Nam, cầu vượt đường sắt, dự án nâng cấp Quốc lộ 1A, Quốc lộ 47, Quốc lộ 45, dự án mở rộng khu công nghiệp Lễ Môn, dự án khu công nghiệp Đình Hương.

Để các công trình trên được triển khai thực hiện đúng tiến độ, bảo đảm chất lượng, hoàn thành vào dịp kỷ niệm 200 năm đô thị tỉnh lỵ, 10 năm thành lập Thành phố, vấn đề đặt ra là cần có một số cơ chế đặc thù về trách nhiệm của chủ đầu tư, thủ tục đầu tư, phương thức đầu tư và về tài chính.

Những kiến nghị của Thành ủy về các nội dung trên đã được Ban Thường vụ Tỉnh uỷ xem xét và chỉ đạo cụ thể. Trên cơ sở đó, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thành phố tiếp tục nỗ lực phấn đấu tập trung xây dựng Thành phố sớm đạt các tiêu chí của đô thị loại II.

Trong năm 2003, Thành phố có 8 quy hoạch chi tiết được phê duyệt và nhiều dự án khác được điều chỉnh bổ sung trình tỉnh phê duyệt. Tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản đạt 867 tỉ đồng, bằng 104,4% kế hoạch, tăng 72% so với năm trước. Các công trình xây dựng cơ bản trọng điểm được tập trung đẩy nhanh tiến độ, như: Quảng trường Lê Lợi, Đại lộ Lê Lợi kéo dài, Trung tâm thương mại, công viên văn hóa thể thao, cầu vượt đường sắt, khu đô thị đông bắc ga, dự án điện Thanh Hóa – Sầm Sơn, khách sạn Sao Mai, trường đại học Hồng Đức, làng SOS. Một số công trình đã hoàn thành và đưa vào sử dụng, như: chợ Đông Thọ, trụ sở một số phường xã, trường học cao tầng. Triển khai thực hiện chỉnh trang 31 tuyến đường nội thành; tiếp tục làm đường giao thông theo phương thức Nhà nước và nhân dân cùng làm nhằm cải thiện cơ sở hạ tầng kĩ thuật ở các khu dân cư. Công tác quản lý đô thị được tăng cường, các công trình xây dựng theo quy hoạch được duyệt. Thành phố cấp 5.400 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đạt 108% kế hoạch. Trật tự đô thị và an toàn giao thông chuyển biến tích cực. Số vụ tai nạn giao thông giảm 24,4%, số người chết do tai nạn giao thông giảm 18,6%.

Với những kết quả đạt được, giữa tháng 12- 2003, Ban chấp Đảng bộ Thành phố đã đề ra nhiệm vụ xây dựng, phát triển Thành phố năm 2004, tiếp tục tập trung hoàn thành các công trình, dự án đã triển khai theo đúng kế hoạch; phát động nhân dân tham gia xây dựng hệ thống giao thông, các công trình phúc lợi xã hội theo phương thức Nhà nước và nhân dân cùng làm; thực hiện chỉnh trang đô thị thị theo tiêu chí đô thị loại II, làm cho Thành phố ngày càng khang trang, sạch đẹp; đẩy mạnh tiến độ giải phóng mặt bằng tạo điều kiện xây dựng các khu đô thị mới, các dự án, công trình trọng điểm. Đồng thời, Thành phố tiến hành rà soát bổ sung quy hoạch và định hướng không gian phát triển Thành phố đến năm 2020. Phối hợp với các ngành trình Uỷ ban nhân dân Tỉnh phê duyệt 3 quy hoạch chi tiết còn lại, đồng thời tích cực xây dựng quy hoạch trung tâm các xã ngoại thành và triển khai xây dựng các khu đô thị mới.

Với những thành tích đạt được trong xây dựng và phát triển Thành phố thời kỳ đổi mới, ngày 6 tháng 4 năm 2004, Chủ tịch Nước ra Quyết định số 174-QĐ tặng thưởng chính quyền và nhân dân Thành phố Thanh Hóa Huân chương Độc lập hạng Ba.

Cùng với niềm vui trước phần thưởng cao quý Đảng và Nhà nước tặng thưởng, trước sự phát triển của Thành phố thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ngày 29-4-2004, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định Quyết định số 72/2004/QĐ-TTg công nhận Thành phố Thanh Hóa thuộc Tỉnh Thanh Hóa là đô thị loại II. Thành phố có tổng diện tích 58,58 km2, dân số gần 200.000 người, với 12 phường nội thành và 6 xã ngoại thành, gồm: các phường Hàm Rồng, Đông Thọ, Trường Thi, Nam Ngạn, Điện Biên, Phú Sơn, Tân Sơn, Ba Đình, Lam Sơn, Đông Sơn, Ngọc Trạo, Đông Vệ và các xã Đông Cương, Đông Hương, Quảng Hưng, Quảng Thành, Quảng Thắng, Đông Hải.


 

. Đô thị loại II  gồm các tiêu chí sau đây :

Đô thị với chức năng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật, du lịch, dịch vụ, đầu mối giao thông, giao lưu trong vùng tỉnh, vùng liên tỉnh hoặc cả nước, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của một vùng lãnh thổ liên tỉnh hoặc một số lĩnh vực đối với cả nước;

Tỷ lệ lao động phi nông nghiệp trong tổng số lao động từ 80% trở lên;

Có cơ sở hạ tầng được xây dựng nhiều mặt tiến tới tương đối đồng bộ và hoàn chỉnh;

Quy mô dân số từ 25 vạn người trở lên;

Mật độ dân số bình quân từ 10.000 người/km2 trở lên.

 

Để thực hiện tốt công tác chuẩn bị và tổ chức tốt lễ kỷ niệm 200 năm đô thị tỉnh lỵ, 10 năm thành lập Thành phố, công bố Quyết định nâng cấp Thành phố Thanh Hóa là đô thị loại II, đón nhận Huân chương Độc lập hạng Ba, ngày 14-7-2004, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ tổ chức Hội nghị bàn kế hoạch tổ chức lễ kỷ niệm, xác định thời gian tổ chức sự kiện trọng đại này vào cuối tháng 11 -2004.

Ban Thường vụ Thành uỷ thành lập Ban Chỉ đạo tổ chức lễ kỷ niệm. Uỷ ban nhân dân Thành phố xây dựng phương án, chương trình lễ hội và trình Uỷ ban nhân Tỉnh phê duyệt.

Thực hiện sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, đến cuối năm 2004, kinh tế- xã hội của Thành phố tiếp tục phát triển mạnh, đời sống nhân dân được nâng lên, văn minh đô thị được tăng cường, chính trị ổn định, an ninh được giữ vững; công tác chuẩn bị lễ kỷ niệm chu đáo. Trên cơ sở đó, ngày 29-11-2004, Thành uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân Thành phố tổ chức trọng thể lễ đón nhận Huân chương Độc lập hạng Ba và công bố Quyết định của Thủ tướng Chính phủ công nhận Thành phố Thanh Hóa thuộc tỉnh Thanh Hóa là đô thị loại II. Phát biểu tại buổi lễ, đồng chí Trương Quang Được, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Quốc hội khẳng định: Đây là dịp để Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc tỉnh Thanh Hóa ôn lại truyền thống vẻ vang trong suốt chiều dài lịch sử đấu tranh giành độc lập, bảo vệ Tổ quốc, xây dựng và phát triển; tưởng nhớ các thế hệ cha anh, các anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống; cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của Trung ương, của các địa phương cùng đồng bào cả nước, đồng bào ta ở nước ngoài và bạn bè quốc tế, “để hôm nay có một tỉnh Thanh Hóa, một Thành phố Thanh Hóa đang sánh vai cùng các tỉnh, thành phố trong cả nước vững bước trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Những thành quả to lớn đạt được thể hiện sự nỗ lực vượt bậc của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thành phố. Chỉ sau 10 năm được công nhận là Thành phố loại III, Thành phố Thanh Hóa đã trở thành Thành phố loại II với chức năng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá- xã hội, khoa học kỹ thuật của tỉnh; là đầu mối giao thông kết nối giữa các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ với các tỉnh miền trung và cả nước. Điều đó khẳng định tốc độ phát triển nhanh, mạnh của Thành phố. Đảng, Nhà nước đánh giá cao những cố gắng, nỗ lực và những thành tích về phát triển kinh tế-xã hội, quốc phòng-an ninh, đối ngoại của Đảng bộ và nhân dân Thành phố đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng và chấn hưng đất nước.

Để Thành phố Thanh Hóa phát triển nhanh, mạnh, vững chắc hơn nữa trong những năm tiếp theo, đồng chí Trương Quang Được đề nghị Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thành phố cũng như toàn Tỉnh Thanh Hóa quan tâm một số vấn đề:

Một là: Tập trung xây dựng, hoàn chỉnh quy hoạch đồng bộ, gắn với tổ chức thực hiện có hiệu quả và quản lý chặt chẽ quy hoạch đã được duyệt. Trên cơ sở quy hoạch, cần xây dựng các chương trình, dự án cụ thể, xác định nguồn vốn đầu tư, động viên các thành phần kinh tế và nhân dân tham gia xây dựng và phát triển đô thị. Xây dựng đồng bộ và hiện đại hóa kết cấu hạ tầng đô thị.

Hai là: Đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội, tạo bước phát triển mạnh hơn về tốc độ và chất lượng tăng trưởng, bảo đảm tính bền vững; tập trung cải thiện môi trường đầu tư; tạo chuyển biến rõ nét trong cải cách hành chính; giữ vững ổn định chính trị, quốc phòng-an ninh.

Có chính sách đào tạo, sử dụng, thu hút nhân tài gắn với chiến lược phát triển nguồn nhân lực.

Ba là: Chăm lo đời sống nhân dân; chú ý xóa đói, giảm nghèo; giải quyết việc làm, phát triển giáo dục-đào tạo, y tế, khoa học-công nghệ; giải quyết các vấn đề xã hội; phòng chống tệ nạn xã hội; xây dựng nếp sống văn minh, thanh lịch.

Bốn là: các tổ chức trong hệ thống chính trị phải đặc biệt quan tâm đến công tác xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh; phát huy quyền làm chủ của nhân dân; thắt chặt mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân. Tích cực đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Xây dựng đội ngũ cán bộ tài năng, biết đoàn kết, tập hợp được sức mạnh của toàn dân vào sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa quê hương đất nước.

Hoàn thành kế hoạch 5 năm 2001-2005

Đầu năm 2004, Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương tổ chức tổng kết nửa nhiệm kỳ khóa IX và đề ra các nhiệm vụ, giải pháp nhằm tiếp tục thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần IX. Hội nghị xác định trong những năm còn lại của kế hoạch 5 năm (2001-2005) cần phải đẩy nhanh nhịp độ tăng trưởng kinh tế; tiếp tục xây dựng đồng bộ cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tháo gỡ những vướng mắc về cơ chế, chính sách nhằm giải phóng sức sản xuất; đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, đồng thời phát triển không hạn chế quy mô doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác;... Hội nghị tiếp tục khẳng định phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt.

Đây là chủ trương lớn của Ban Chấp hành Trung ương, định hướng cho các tổ chức Đảng tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các nhiệm vụ đề ra trong nhiệm kỳ của mình. Đối với Đảng bộ Thành phố Thanh Hóa, ngay từ cuối tháng 12-2003, Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố đã đề ra phương hướng nhiệm vụ chung của năm 2004, đó là: Phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo, tranh thủ mọi thời cơ thuận lợi, tích cực khắc phục những yếu kém khó khăn, huy động mọi nguồn lực đẩy mạnh phát triển sản xuất kinh doanh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo bước đột phá về phát triển kinh tế, phấn đấu để Thành phố thực sự là trung tâm chính trị, kinh tế văn hoá xã hội, khoa học, kĩ thuật của cả tỉnh. Xây dựng và chỉnh trang đô thị theo tiêu chí của đô thị loại II. Nâng cao chất lượng hoạt động văn hoá xã hội, kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế- xã hội với củng cố quốc phòng - an ninh, tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, xây dựng chính quyền trong sạch vững mạnh, đổi mới hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn  thể chính trị-xã hội, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, phấn đấu xây dựng Thành phố ngày càng văn minh hiện đại, phát triển nhanh và vững chắc.

Các mục tiêu chủ yếu:

Về kinh tế,  tổng sản phẩm quốc nội trên địa bàn (GDP) tăng 16%, bình quân đầu người 929 USD; tăng trưởng các ngành kinh tế chủ yếu: công nghiệp 22-23%, dịch vụ- thương mại 13%, nông nghiệp 6%. Cơ cấu kinh tế công nghiệp-dịch vụ- nông nghiệp trong GDP có tỉ trọng 38% - 57% - 5%.

Tổng vốn đầu tư toàn xã hội 900 tỉ đồng. Thu ngân sách tăng 10% so với kế hoạch tỉnh giao.

Về văn hóa-xã hội, duy trì phổ cập tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập trung học cơ sở và từng bước hoàn thành phổ cập trung học phổ thông, xây dựng một trường đạt chuẩn quốc gia, chuyển một số trường trung học cơ sở và tiểu học sang bán công.

Giảm mức sinh xuống 0,2%0, tỉ lệ tăng dân số tự nhiên 0,7%. Hạ tỉ lệ đói nghèo xuống dưới 4%. Hạ tỉ lệ thất nghiệp xuống dưới 5%. Giảm tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng xuống dưới 14%.

Tỉ lệ gia đình văn hoá  đạt 75% trở lên, gia đình thể thao 38% trở lên; 85% phố làng văn hoá.

Đảm bảo quốc phòng-an ninh, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Hoàn thành chỉ tiêu giao quân năm 2004 và huấn luyện quân sự đạt chất lượng tốt. Phấn đấu 100% đơn vị cơ sở an toàn làm chủ-sẵn sàng chiến đấu và thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở.

Về xây dựng hệ thống chính trị, tổ chức bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân 3 cấp có tỉ lệ cử tri tham gia cao và đúng luật. Phấn đấu 80% cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh.

Để thực hiện được những mục tiêu trên, Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố đề ra các giải pháp chủ yếu sau:

Về kinh tế, tiếp tục đẩy mạnh phát triển công nghiệp ngoài quốc doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nhằm thu hút vốn, khuyến khích phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nâng cao chất lượng và mở rộng hoạt động thương mại, phấn đấu tổng mức bán lẻ hàng hoá, dịch vụ đạt 1.030 tỉ đồng. Phát triển đa dạng các loại hình dịch vụ, nhất là dịch vụ phục vụ sản xuất, du lịch, dịch vụ xuất khẩu nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu về sản xuất và đời sống của nhân dân. Trong nông- lâm nghiệp, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi hướng tới mục tiêu cánh đồng 50 triệu đồng/ ha, hộ gia đình có thu nhập 40-50 triệu đồng/ năm. Phấn đấu giá trị sản xuất nông - lâm nghiệp đạt 1150,6 tỉ đồng, tăng 6% so với năm 2003; tổng diện tích gieo trồng cả năm 5487 ha, diện tích rau an toàn 15 ha, hoa chất lượng cao 2 ha, bò Lai sind 700 con, đàn lợn 36.000 con, trong có 1700 con lợn hướng nạc đủ tiêu chuẩn xuất khẩu, 500 lợn nái ngoại hướng nạc, cá thâm canh 30 ha.

Về xây dựng, quy hoạch và quản lý đô thị, tập trung hoàn thành việc rà soát, bổ sung quy hoạch và định hướng phát triển đến năm 2020; đẩy mạnh tiến độ thi công các công trình trọng điểm như cầu vượt đường sắt, trung tâm thương mại, công viên văn hoá thể thao, đường Lê Lợi kéo dài; triển khai dự án xây dựng nhà ở cho người có thu nhập thấp, công nhân khu công nghiệp; chỉnh trang các tuyến phố nội thành,…

Về các lĩnh vực văn hoá- xã hội, đẩy mạnh xã hội hoá lĩnh vực văn hoá xã hội, tiếp tục thực hiện cuộc vân động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở nơi dân cư, trọng tâm là xây dựng phố, làng , cơ quan văn hoá, xây dựng nếp sống văn minh đô thị; giữ vững danh hiệu đơn vị dẫn đầu tỉnh về chất lượng giáo dục toàn diện; tổ chức tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân về Pháp lệnh dân số, chủ động phòng chống các loại dịch bệnh, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh cho nhân dân; tiếp tục đẩy mạnh công tác xoá đói giảm nghèo, tập trung giải quyết việc làm tai chỗ, đẩy mạnh xuất khẩu lao động, phấn đấu giảm tỉ lệ hộ đói nghèo xuống dưới 4%, giảm tỉ lệ thất nghiệp xuống dưới 5%.

Về quốc phòng- an ninh, hoàn thành việc gọi thanh niên nhập ngũ, nâng cao chất lượng huấn luyện dân quân tự vệ, dự bị động viên; củng cố vững chắc nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, xây dựng cụm tuyến an toàn làm chủ-sẵn sàng chiến đấu gắn với thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, xây dựng phố, xóm không có tệ nạn xã hội và tội phạm.

Tiếp tục kiện toàn bộ máy chính quyền các cấp theo hướng gọn nhẹ, có hiệu quả; đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân; đẩy mạnh cải cách  hành chính; tổ chức tốt cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp; thực hiện luân chuyển cán bộ xuống cơ sở,…

Về công tác xây dựng Đảng, tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) về cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên; đảng viên nói và làm theo nghị quyết; chủ động rà soát bổ sung quy hoạch cán bộ, xây dựng kế hoạch đào tạo bồi dưỡng cán bộ theo các tiêu chuẩn quy định đối với các chức danh; chuẩn bị nhân sự cho cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp vào quý 2 năm 2004 và đại hội Đảng các cấp trong năm 2005.

Với những giải pháp đồng bộ nêu trên, Đảng bộ và nhân dân Thành phố đã nỗ lực phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ đề ra.

Trong năm 2004, các cơ sở kinh tế chủ động nắm bắt thị trường, đổi mới phương thức hoạt động, thực hiện liên doanh, liên kết, đầu tư chiều sâu, áp dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật, mở rộng quy mô, đa dạng hoá  sản phẩm, sắp xếp lại tổ chức bộ máy, đẩy mạnh các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, do những khó khăn về giá cả, thời tiết không thuận lợi nên một số chỉ tiêu không đạt kế hoạch đề ra. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 15,1% (thấp hơn kế hoạch 0,9%) nhưng vẫn tăng gấp 3 lần so với năm 1994, GDP bình quân đầu người đạt 950 USD (tăng 30 USD so với kế hoạch), gấp 2,2 lần so với năm 1994. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XVII đề ra. Tỉ trọng giá trị công nghiệp - thương mại, dịch vụ - nông, lâm nghiệp trong GDP là 37%- 55,8%- 7,2% (chưa đạt kế hoạch đề ra). Giá trị sản xuất công nghiệp đạt 1.014,2 tỉ đồng, tăng 32% so với năm trước, trong đó công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp ngoài quốc doanh đạt 403,7 tỉ đồng, bằng 125% kế hoạch, tăng 37% so với năm trước. Giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 40 triệu USD, tăng 25% so với năm trước. Giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 153 tỉ đồng, bằng 102% kế hoạch, tăng 6,5% so với năm trước. Thu ngân sách trên địa bàn đạt 147,2 tỉ đồng, bằng 112% kế hoạch tỉnh giao, tăng 16% so với năm trước, nhưng chỉ đạt 60% kế hoạch của Thành phố.


 

. Sau Hội nghị này, ngày 29- 7-2004, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ ra Kết luận số 06-KL/TU Về tổ chức kỷ niệm 200 năm đô thị tỉnh lỵ, 10 năm thành lập Thành phố, công bố Quyết định nâng cấp Thành phố Thanh Hóa là đô thị loại II.

Bài phát biểu của Đồng chí Trương Quang Được, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Quốc hội tại Lễ mít tinh kỷ niệm 200 năm đô thị Thanh Hóa, 10 năm thành lập Thành phố, đón nhận Quyết định công nhận Thành phố Thanh Hóa là đô thị loại II và Huân chương Độc lập hạng Ba, tr.2

 

 

Trong công tác quy hoạch, quản lý đô thị, có nhiều công trình, hạng mục công trình được hoàn thành và đưa vào sử dụng trong dịp kỷ niệm 200 năm đô thị tỉnh lỵ, 10 năm thành lập Thành phố, đón nhận Quyết định của Thủ tướng chính phủ nâng cấp Thành phố là đô thị loại II và đón nhận Huân chương Độc lập hạng Ba. Bộ mặt đô thị khang trang, xanh hơn, sáng hơn, đẹp hơn. Tuy nhiên còn một chỉ tiêu quan trọng chưa thực hiện được. Tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản chỉ đạt 550 tỉ đồng, bằng 67% kế hoạch và 65% so với năm trước. Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn những hạn chế, trong năm cấp được 6.000 giấy, nâng tổng số lên 26.500/43.000 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đạt 62%.

Công tác quy hoạch mở rộng không gian đô thị Thành phố đến năm 2020 được triển khai. Ngày 17-8-2004, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ ra Thông báo kết luận số 555- TB/TU về định hướng điều chỉnh quy hoạch chung mở rộng địa giới hành chính Thành phố Thanh Hóa đến năm 2020. Kết luận nêu rõ: Việc điều chỉnh quy hoạch chung và mở rộng địa giới hành chính Thành phố để tương xứng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của tỉnh đất rộng, người đông là cần thiết. Hướng mở rộng không gian Thành phố chủ yếu về phía đông, có thể nối liền với Thị xã Sầm Sơn, đồng thời nghiên cứu thêm một số xã ở các huyện lân cận, như Hoàng Hoá, Thiệu Hoá, Đông Sơn. Diện tích tự nhiên của Thành phố sau khi mở rộng là 10.000 ha trở lên. Trong quá trình quy hoạch cần xác định rõ các phân khu chức năng như: các khu dân cư, khu hành chính, khu trung tâm đào tạo, khu trung tâm thương mại, văn hoá, khu công nghiệp, khu du lịch,….và hệ thống giao thông, hạ tầng kĩ thuật.

Đây là chủ trương, định hướng quan trọng của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về mục đích ý, nghĩa và định hướng mở rộng Thành phố. Chủ trương này mở ra cơ hội to lớn cho công cuộc đẩy mạnh xây dựng và phát triển Thành phố ngày càng giàu đẹp, văn minh, hiện đại.

Hoạt động văn hoá- xã hội có nhiều khởi sắc, đặc biệt là các hoạt động tổ chức lễ kỷ niệm 200 năm đô thị tỉnh lỵ, 10 năm thành lập Thành phố, đón nhận Huân chương Độc lập hạng Ba và trở thành đô thị loại II. 

 

 

 

 

Trong giáo dục, chất lượng dạy và học được nâng lên; tình trạng dạy thêm, học thêm trái quy định giảm; chủ trương xã hội hoá giáo đáp ứng yêu cầu học tập của nhân dân. Thành phố tiếp tục giữ vững danh hiệu đơn vị dẫn đầu tỉnh về chất lượng giáo dục toàn diện.

Các cơ sở y tế thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, không để xảy ra dịch bệnh, đảm bảo việc khám chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân. Công tác truyền thông dân số, chăm sóc bà mẹ và trẻ em được quan tâm. Tỉ lệ phát triển dân số tự nhiên dưới 0,7%, đạt chỉ tiêu đề ra. Đội ngũ cán bộ y tế và cơ sở vật chất, thiết bị kĩ thật được tăng cường. Thành phố có thêm 4 trạm xá phường, xã đạt chuẩn quốc gia.

Các đối tượng chính sách được quan tâm, đời sống ổn định. Công tác xoá đói, giảm nghèo có nhiều tiến bộ, Thành phố chỉ còn 1.511 hộ nghèo, chiếm 3,56%. Theo Chỉ thị 08 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, các cấp, ngành tích cực thực hiện việc xoá nhà tranh tre nứa lá, tạm bợ, đã xây dựng ủng hộ 40 nhà nghèo, với tổng giá trị 415 triệu đồng.

Công tác quốc phòng - an ninh được bảo đảm. Thành phố thành lập Ban chỉ đạo giáo dục quốc phòng, hoàn thành kế hoạch tuyển quân và kế hoạch huấn luyện quân sự; thực hiện nghiêm chế độ trực sẵn sàng chiến đấu, tổ chức diễn tập khu vực phòng thủ, kết hợp với nhiệm vụ phòng chống lụt bão và tìm kiếm cứu nạn.

An ninh trên địa bàn được giữ vững, đặc biệt là công tác bảo đảm an toàn các ngày lễ lớn và các sự kiện của Thành phố. Lực lượng an ninh đã mở nhiều đợt cao điểm truy quét các loại tội phạm và tệ nạn xã hội, giữ gìn trật tự, an toàn giao thông, không để bọn tội phạm có tổ chức, lưu manh chuyên nghiệp, tội phạm theo kiểu xã hội đen hoạt động trên địa bàn Thành phố.

Ngay từ đầu năm 2004, các cấp uỷ đã tập trung chuẩn bị cho cuộc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2004-2009. Trên cơ sở đó, cuộc bầu cử đã thành công tốt đẹp, số cử tri đi bầu đạt 99,4%. Các đơn vị bầu cử bầu đủ số đại biểu theo quy định, không có đơn vị phải bầu thêm, bầu bổ sung, trong đó: đại biểu Hội đồng nhân dân Thành phố 39 người, đại biểu Hội đồng nhân dân 18 phường, xã 461 người. Tỉ lệ đại biểu trúng cử là nữ và trẻ tuổi cao hơn khoá trước.

 

 

 

 

 

Sau bầu cử, Hội đồng nhân dân Thành phố và các phường, xã đã tổ chức kì họp thứ nhất, kiện toàn bộ máy của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, xây dựng quy chế hoạt động, chương trình công tác. Các chức danh được bầu tại kì họp thứ nhất Hội đồng nhân dân Thành phố và các phường, xã đều bảo đảm chất lượng, đúng với định hướng giới thiệu nhân sự của các cấp uỷ.

Tại kì họp thứ nhất Hội đồng nhân dân Thành phố nhiệm kỳ 2004-2009, đồng chí Hoàng Văn Hoằng được bầu làm Chủ tịch Hội đồng nhân dân; đồng chí Nguyễn Ngọc Hồi, Phó Bí thư Thành uỷ được bầu làm Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Thành phố.

Uỷ ban nhân dân các cấp tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chương trình cải cách nền hành chính quốc gia, trong đó tập trung cải cách thủ tục hành chính và chỉ đạo thực hiện các chương trình phát triển kinh tế -xã hội.

Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội góp phần quan trọng vào công cuộc xây dựng và phát triển Thành phố. Mặt trận và các tổ chức chính trị-xã hội tập trung củng cố tổ chức bộ máy, kết nạp thêm 5.000 hội viên, đoàn viên mới; đã tổ chức nhiều cuộc thi, các cuộc vận động: Cán bộ làm công tác dân vận khéoToàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư; Ngày vì người nghèo; Ủng hộ xây dựng nhà cho người nghèo, xoá nhà tranh, tre nứa lá, tạm bợ ... được nhân dân Thành phố đồng tình ủng hộ. Riêng cuộc vận động ủng hộ xây dựng nhà cho người nghèo, xoá nhà tranh, tre nứa lá, tạm bợ, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức quần chúng đã quyên góp được 257 triệu đồng trong tổng số 415 triệu đồng.

Về công tác xây dựng Đảng, trong năm 2004, toàn Đảng bộ tập trung triển khai thực hiện các nghị quyết của Trung ương: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa IX  và Kết luận của Hội nghị Trung ương 10 khoá IX; sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII về tiếp tục xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; sơ kết 2 năm thực hiện Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị về công tác tư pháp...

Nhằm nâng cao nhận thức, trình độ lý luận cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, Thành uỷ đã phối hợp tổ chức 17 lớp đào tạo-bồi dưỡng cho 892 học viên, trong đó có 1 lớp trung cấp lí luận. Thông qua các hội nghị quán triệt nghị quyết, sơ kết, tổng kết việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, của Tỉnh và Thành phố, trình độ nhận thức về chính trị của cán bộ, đảng viên được nâng lên, tư tưởng ổn định, góp phần tăng cường, củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng bộ.

Công tác tổ chức, cán bộ tập trung hướng về cơ sở nhằm xây dựng tổ chức Đảng trong sạch vững mạnh. Các cấp uỷ thường xuyên theo dõi việc đảng viên và tổ chức Đảng chấp hành Điều lệ Đảng, quản lý đảng viên, duy trì sinh hoạt chi bộ, thực hiện đấu tranh tự phê bình và phê bình nhằm nâng cao sức chiến đấu của Đảng. Đồng thời các cấp uỷ tổ chức nghiêm túc việc đổi thẻ đảng cho đảng viên. Toàn Đảng bộ có 10912/11373 đảng viên được đổi thẻ. Trong năm, thành lập mới 4 chi bộ cơ sở, nâng tổng số lên 105 đảng bộ, chi bộ cơ sở, trong đó có 67 đảng bộ, 38 chi bộ cơ sở. Các chi bộ tổ chức kết nạp thêm 266 đảng viên mới, trong đó 60 % đảng viên trẻ và 70% có trình độ đại học.

Các cấp uỷ làm tốt công tác giới thiệu người ra ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân và các chức danh chủ chốt của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân Thành phố, phường, xã, bảo đảm chất lượng, đúng quy trình và đúng luật. Ban Thường vụ Thành uỷ giới thiệu để Ủy ban nhân dân Thành phố bổ nhiệm 7 cán bộ giữ các chức vụ: trưởng, phó phòng, ban, ngành, đoàn thể của Thành phố; thoả thuận với với các ngành của tỉnh bổ nhiệm lại 11 cán bộ và điều động 3 cán bộ thuộc các ngành chuyên môn; cử 11 cán bộ trong diện quy hoạch đi học cao cấp lí luận chính trị, 6 cán bộ dự thi cao học; mở lớp cho 101 cán bộ Thành phố và phường, xã tham gia khoá học trung cấp lí luận chính trị tại Thành phố; luân chuyển và điều động 8 cán bộ Thành phố tăng cường cho 5 phường và 1 xã.

Công tác kiểm tra đã kịp thời xử lí 159 đơn, thư khiếu nại, tố cáo của đảng viên và công dân. Nội dung đơn, thư tập trung tố cáo các hành vi vi phạm trong xây dựng cơ bản, quản lý đất đai và về phẩm chất, năng lực của một số cán bộ đảng viên. Những đơn, thư chủ yếu trong thời gian chuẩn bị bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp. Qua kiểm tra, có 45 đảng viên bị xử lí kỷ luật, trong đó: khiển trách 37, cảnh cáo 5, khai trừ 3.

Những kết quả đạt được trên tất cả các mặt kinh tế - xã hội, quốc phòng- an ninh và xây dựng Đảng trong năm 2004 tạo đà cho Đảng bộ và nhân dân Thành phố Thanh Hóa tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XVII, hoàn thành những nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm 2001-2005.

Thực hiện những chủ trương và biện pháp đề ra, trong năm 2005, năm kết thúc nhiệm kỳ Đảng bộ thành phố khoá XVII, năm cuối của kế hoạch 5 năm 2001-2005, Đảng bộ và nhân dân Thành phố đã nỗ lực phấn đấu vươn lên giành nhiều thành tích trên các lĩnh vực, tổ chức thành công đại hội đảng bộ cơ sở và Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XVIII.

Về phát triển kinh tế, với quyết tâm lập thành tích chào mừng đại hội Đảng các cấp, ngay từ đầu năm các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế đã nỗ lực vươn lên, chủ động triển khai thực hiện các giải pháp phát triển kinh tế do Ban Thường vụ Thành uỷ đề ra, như: chủ động tìm kiếm thị trường, thực hiện đa dạng hoá sản phẩm, tăng cường liên doanh, liên kết, đầu tư công nghệ mới, hiện đại, tổ chức hợp lí hoá bộ máy của doanh nghiệp, đơn vị sản xuất, kinh doanh, động viên, cổ vũ sự năng động, sáng tạo của người lao động, tạo phong trào thi đua sôi nổi trong sản xuất, kinh doanh, đồng thời phát triển thêm 205 doanh nghiệp mới, cấp mới đăng kí kinh doanh cho 1.237 hộ, nâng tổng số hộ đăng kí kinh doanh lên 6.798 hộ.

Với những giải pháp đồng bộ đó, kinh tế của Thành phố tiếp tục tăng trưởng cao, tổng giá trị tăng thêm 1.597 tỉ đồng, GDP đạt 16,1%, đạt kế hoạch đề ra (tăng trên 16%); mức tăng trưởng kinh tế của Thành phố trung bình 5 năm (2001-2005) là 15,3%, cao hơn mức tăng bình quân của tỉnh là 9,1% và của cả nước là 7,5%.


 

 Ngày 14-11-2008, Kì họp thứ tư, Quốc hội khoá XII ra  Nghị quyết số 25/2008/QH12 về việc kéo dài nhiệm kỳ hoạt động 2004 – 2009 của Hội đồng nhân các cấp đến 2011

 

GDP bình quân đầu người đạt 1.100 USD, vượt kế hoạch đề ra, tăng 2,5 lần so với năm 2000 và gấp 3,3 lần so với bình quân chung của cả tỉnh. Tỉ trọng giá trị công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp trong GDP là 50,9% - 42,4% - 6,7%. Tổng mức bán lẻ lĩnh vực dịch vụ, thương mại đạt 1241 tỉ đồng, bằng 103,8% kế hoạch, tăng 15,9% so với năm trước; giá trị sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh đạt 601,2 tỉ đồng, bằng 120,2% kế hoạch, tăng 25% so với năm trước; giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 162 tỉ đồng, bằng 101,2% kế hoạch, tăng 4,8% so với năm trước; giá trị xuất khẩu đạt 32 triệu USD; tổng thu ngân sách đạt hơn 203 tỉ đồng, bằng 103% kế hoạch tỉnh giao, tăng 39% so với năm trước, nhưng mới đạt 96% dự toán của Thành phố; tổng chi ngân sách đạt 151,9 tỉ đồng, bằng 109 % kế hoạch đề ra.

Trong quy hoạch, xây dựng và quản lý đô thị, năm 2005, Thành phố bước đầu triển khai quy hoạch điều chỉnh mở rộng không gian phát triển đô thị, hoàn thành một số quy hoạch chi tiết. Các công trình xây dựng trọng điểm chào mừng Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI được hoàn thành đúng tiến độ. Công tác vệ sinh môi trường được tăng cường, bộ mặt đô thị ngày càng khang trang hơn. Tiếp tục quan tâm công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tổng số giấy chứng nhận đã cấp là 30.481 giấy, đạt 73%.

Thành phố tiếp tục dẫn đầu tỉnh về chất lượng giáo dục. Trong năm, có thêm 6 trường thuộc các cấp học đạt chuẩn quốc gia, nâng tổng số trường đạt chuẩn quốc gia lên 21/66 trường. Thành lập mới 6 trung tâm học tập cộng đồng,  đã có 100% số phường, xã có trung tâm học tập cộng đồng. Công tác khuyến học tiếp tục được các cấp, các ngành và nhân dân nhiệt tình ủng hộ. Toàn Thành phố có gần 12 nghìn học sinh có thành tích được nhận các phần quà động viên, trong đó có 500 học sinh nghèo vượt khó, với tổng giá trị 500 triệu đồng.

Các hoạt động văn hóa tập trung vào việc tuyên truyền các ngày lễ lớn và Đại hội Đảng các cấp. Trong năm có thêm 20 phố, làng văn hóa, cơ quan văn minh, 134 đơn vị đạt danh hiệu văn hóa cấp Thành phố và cấp Tỉnh. Hoạt động thể dục thể thao phát triển, tổ chức thành công Đại hội thể dục thể thao Thành phố.

Công tác y tế được bảo đảm, các cơ sở khám chữa bệnh thực hiện tốt việc khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, không để xảy ra dịch bệnh trên địa bàn. Hoạt động tuyên truyền về dân số, kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc bà mẹ và trẻ em đạt hiệu quả cao. Tỉ lệ phát triển dân số tự nhiên đạt 0,7%, tỉ lệ người sinh con thứ ba giảm  1,5%, tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng giảm 1,2% so với năm trước.

Các vấn đề xã hội được quan tâm, như: giải quyết việc làm cho 9.000 lao động, tạo điều kiện cho 123 lao động ra nước ngoài làm việc. Công tác xoá đói giảm nghèo được triển khai tích cực hơn, tỉ lệ hộ nghèo còn 8,91%, giảm 1,36% so với năm trước. Đó là những thành quả thiết thực chào mừng Đại hội Đảng các cấp và Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ XVIII.

Những chủ trương, định hướng lớn nhằm phát huy tiềm năng, thu hút nguồn lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá

Quá trình tiến hành đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân.

Nhằm chuẩn bị tốt công tác nhân sự đại hội Đảng các cấp, ngày 13-1-2005, Thường vụ Tỉnh ủy ra Kế hoạch số 37-KH/TU về kiểm điểm tự phê bình và phê bình đối với cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ lãnh đạo, quản lý năm 2004. Tiếp đó, ngày 19-5-2005, Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Kế hoạch số 41-KH/TU về nhận xét đánh giá cấp ủy viên đương nhiệm phục vụ chuẩn bị nhân sự cấp ủy.

Ban Thường vụ Tỉnh ủy chọn Đảng bộ Thành phố là đơn vị đại hội điểm của Tỉnh. Đây là vinh dự đồng thời cũng là trách nhiệm của Đảng bộ và nhân dân Thành phố trong quá trình tổ chức đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X.

Thực hiện Chỉ thị 46 của Bộ Chính trị và các kế hoạch của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, trong quý I năm 2005, Ban Thường vụ Thành ủy đã hoàn chỉnh kế hoạch chỉ đạo đại hội Đảng bộ, chi bộ nhiệm kỳ 2005-2010, coi đây là nhiệm vụ hàng đầu trong chương trình công các năm 2005.

Trong quá trình tiến tới đại hội Đảng bộ, chi bộ cơ sở, các đơn vị đã tập trung sơ kết, tổng kết một số chỉ thị, nghị quyết về những chủ trương lớn của Đảng; tổ chức tuyên truyền về những thành tựu đạt được, đồng thời phát động các phong trào thi đua yêu nước trong toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Sau khi tổ chức đại hội điểm tại 4 đơn vị trong tháng 6 - 2005, Thường vụ Thành ủy tổ chức rút kinh nghiệm đề chỉ đạo đại hội trên diện rộng. Trong tháng 7 và tháng 8 năm 2005, các tổ chức cơ sở Đảng trực thuộc đã tổ chức thành công đại hội ở cấp mình.

Từ ngày 5 đến ngày 9 - 9 - 2005, Đại hội Đảng bộ Thành phố khóa XVIII, nhiệm kỳ 2005-2010 được tổ chức trọng thể tại Hội trường Thành ủy. Đây là đại hội Đảng bộ cấp Thành phố, huyện thị xã đầu tiên của tỉnh Thanh Hóa.

Dự Đại hội có 250 đại biểu, đại diện cho hơn 11.000 đảng viên của 103 tổ chức cơ sở Đảng trong Đảng bộ. Đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ tới dự và trực tiếp chỉ đạo Đại hội.

Phát biểu khai mạc Đại hội, đồng chí Hoàng Văn Hoằng, Bí thư Thành uỷ khẳng định: qua 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XVII, Đảng bộ và nhân dân Thành phố đã giành được những thành tựu to lớn có ý nghĩa rất quan trọng trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, an ninh- quốc phòng. Đồng chí nhấn mạnh chủ đề Đại hội Đảng bộ là: Đại hội của trí tuệ, dân chủ, đoàn kết và đổi mới.

Đại hội nghe và thảo luận Báo cáo chính trị, Báo cáo kiểm điểm của Ban Chấp hành Đảng bộ khoá XVII, Báo cáo kết quả 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) và cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Báo cáo tổng hợp ý kiến của Đảng bộ Thành phố tham gia vào các dự thảo văn kiện của Trung ương trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X và Báo cáo chính trị của Tỉnh uỷ trình Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI.

Báo cáo chính trị khẳng định: Nhiệm kỳ 2001-2005, Đảng bộ và nhân dân Thành phố đã đạt được những thành tích quan trọng, vượt nhiều mục tiêu nhiệm vụ đề ra.

Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng tỉ trọng công nghiệp - dịch vụ, giảm tỉ trọng nông nghiệp. Doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh tăng nhanh. Dịch vụ - thương mại phát triển và đang phát huy thế mạnh của đô thị, khai thác có hiệu quả quỹ đất và các nguồn lực trong xã hội cho đầu tư phát triển; GDP bình quân đầu người tăng và gấp 2,5 lần so với bình quân chung của cả Tỉnh.

Văn hoá xã hội có nhiều chuyển biến tiến bộ, trình độ dân trí, nếp sống văn minh đô thị từng bước được nâng lên, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày một nâng cao, an  ninh chính trị được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. 

      

Với những kết quả đạt được, Thành phố Thanh Hoá vinh dự được Chủ tịch Nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Ba; Thủ tướng Chính phủ quyết định công nhận Thành phố Thanh Hoá là đô thị loại II.

Bên cạnh những thành tựu đạt được, Đại hội chỉ ra những hạn chế, yếu kém, đồng thời nêu rõ những nguyên nhân chủ quan và khách quan của những hạn chế, yếu kém trong hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ.

Đại hội đề ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ của nhiệm kỳ 2005-2010. Về phương hướng chung, đó là: Khai thác có hiệu quả tiềm năng thế mạnh của đô thị tỉnh lỵ, tạo sức bật mới để tăng tốc phát triển nhanh và bền vững; đẩy mạnh thu hút đầu tư, xác định rõ các chương trình và các công trình trọng điểm để tập trung đầu tư có hiệu quả; chăm lo phát triển văn hoá xã hội, xây dựng ý thức văn minh đô thị làm nền tảng tinh thần cho phát triển toàn diện, giữ vững kỉ cương, làm tốt công tác cán bộ, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; mở rộng dân chủ, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, phấn đấu trở thành đô thi loại I vào năm 2015.

Về kinh tế, GDP trên địa bàn tăng bình quân từ 20% trở lên. Tổng giá trị gia tăng năm 2010 gấp hơn 2 lần so với năm 2005; GDP bình quân đầu người đến năm 2010 đạt 2.200 USD. Cơ cấu kinh tế trong GDP năm 2010: dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp có tỉ trọng 50% - 45,6% - 4,4%

Tốc độ tăng thu ngân sách hàng năm 20% trở lên. Tổng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn trong năm đạt 12.500 tỉ đồng. Giá trị xuất khẩu đến năm 2010 đạt 80-100 triệu USD.

Về văn hóa-xã hội, tỉ lệ tăng dân số tự nhiên dưới 0,7%. Đến năm 2010 tạo việc làm mới cho 50000-55000 lao động. Tỉ lệ lao động được đào tạo đến năm 2010 đạt 60%. Giảm tỉ lệ hộ nghèo mỗi năm từ 1,5- 2%; tỉ lệ trẻ suy dinh dưỡng xuống dưới 8%; tỉ lệ thất nghiệp giảm xuống 2%. Số phố, làng được công nhận danh hiệu đơn vị văn hoá cấp Thành phố đạt 80%.

Về xây dựng Đảng, hàng năm số tổ chức cơ sở Đảng trong sạch vững mạnh đạt 80%.

Đại hội đề ra các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện thắng lợi những mục tiêu trên.

Phát biểu tại Đại hội, đồng chí Bí thư Tỉnh uỷ khẳng định những thành tựu của Đảng bộ Thành phố trong nhiệm kỳ 2001-2005, đồng thời nêu ra những nhiệm vụ nhằm đẩy nhanh tốc độ phát triển Thành phố trong những năm tiếp theo: Là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của Tỉnh, một địa bàn quan trọng và nhạy cảm về chính trị- xã hội, Thành phố có khả năng vừa tạo ra năng lực nội sinh to lớn, vừa thu hút nguồn lực và tụ hội nhân tài từ nhiều nơi. Vì vậy, Thành phố phải phát triển nhanh, mạnh, vững chắc, phấn đấu đi trước và về đích trước trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá, phấn đấu trở thành đô thị loại I vào năm 2015.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố khoá XVIII, nhiệm kỳ 2005-2010 gồm 39 đồng chí. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố khoá XVIII bầu Ban Thường vụ gồm 11 đồng chí; bầu Bí thư và các Phó Bí thư. Đồng chí Hoàng Văn Hoằng được bầu lại làm Bí thư; đồng chí Nguyễn Văn Ngọc làm Phó Bí thư thường trực và đồng chí Nguyễn Ngọc Hồi làm Phó Bí thư (Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố).

Đại hội bầu Đoàn đại biểu đi dự Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lần thứ XV gồm 21 đại biểu chính thức.

Đại hội kêu gọi toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân Thành phố phát huy truyền thống đoàn kết, kỷ cương, năng động, sáng tạo và vị thế của đô thị tỉnh lỵ, quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố khoá XVIII, nhiệm kỳ 2005-2010, xây dựng Thành phố ngày càng giàu mạnh, hiện đại, văn minh.

 

 

(Post by: Trần Chiến; Nguồn sách Lịch sử Đảng bộ Thành phố Thanh Hóa 1945-2010 do Thành ủy TP Thanh Hóa biên soạn và xuất bản 5/2014)